HOA VIÊN
Bạn có muốn phản ứng với tin nhắn này? Vui lòng đăng ký diễn đàn trong một vài cú nhấp chuột hoặc đăng nhập để tiếp tục.


Diễn đàn về Văn học, Thơ ca, Nghệ thuật, Tình bạn, Tình yêu, và Cuộc sống. Không chính trị và quảng cáo.
 
Trang ChínhTrang Chính  Latest imagesLatest images  Tìm kiếmTìm kiếm  Đăng kýĐăng ký  Đăng NhậpĐăng Nhập  
Chào mừng bạn đã đến với Diễn đàn Hoa Viên 1 (hoavien.forumvi.com).          Chào mừng bạn đã đến với Diễn đàn Hoa Viên 2 (hoavien2.forumvi.com).          Chào mừng bạn đã đến với Diễn đàn Hoa Viên 1 (hoavien.forumvi.com).          Chào mừng bạn đã đến với Diễn đàn Hoa Viên 2 (hoavien2.forumvi.com).          Chào mừng bạn đã đến với Diễn đàn Hoa Viên 1 (hoavien.forumvi.com).          Chào mừng bạn đã đến với Diễn đàn Hoa Viên 2 (hoavien2.forumvi.com).          Chào mừng bạn đã đến với Diễn đàn Hoa Viên 1 (hoavien.forumvi.com).          Chào mừng bạn đã đến với Diễn đàn Hoa Viên 2 (hoavien2.forumvi.com).          
Thống Kê
Hiện có 23 người đang truy cập Diễn Đàn, gồm: 0 Thành viên, 0 Thành viên ẩn danh và 23 Khách viếng thăm :: 2 Bots

Không

Số người truy cập cùng lúc nhiều nhất là 145 người, vào ngày Thu May 02 2024, 15:17
Latest topics
» Dòng Thơ Nhạc Trích Đoạn
TRUYỆN CỔ TÍCH VIỆT NAM Emptyby Nguyễn Thành Sáng Sun Apr 28 2024, 16:14

» Sau Mười Năm
TRUYỆN CỔ TÍCH VIỆT NAM Emptyby Viễn Phương Thu Apr 04 2024, 18:31

» Cánh Thơ Xuân Tình
TRUYỆN CỔ TÍCH VIỆT NAM Emptyby Viễn Phương Fri Mar 22 2024, 19:43

» Khúc Nhạc Tình Yêu & Câu Chuyện Tình
TRUYỆN CỔ TÍCH VIỆT NAM Emptyby Nguyễn Thành Sáng Thu Jan 25 2024, 16:22

» Thơ Hay Ngắn
TRUYỆN CỔ TÍCH VIỆT NAM Emptyby Nguyễn Thành Sáng Sat Jan 13 2024, 13:26

» Tôi Yêu Mùa Đông
TRUYỆN CỔ TÍCH VIỆT NAM Emptyby Viễn Phương Sun Dec 24 2023, 18:50

» Thôi Rồi Nỗi Nhớ Còn Đây…
TRUYỆN CỔ TÍCH VIỆT NAM Emptyby Nguyễn Thành Sáng Thu Dec 21 2023, 16:21

» Buồn Thu
TRUYỆN CỔ TÍCH VIỆT NAM Emptyby Viễn Phương Sun Dec 17 2023, 19:27

» Khúc Nhạc Tình Buồn – 2
TRUYỆN CỔ TÍCH VIỆT NAM Emptyby Nguyễn Thành Sáng Wed Dec 06 2023, 14:40

» Khúc Nhạc Tình Buồn - 1
TRUYỆN CỔ TÍCH VIỆT NAM Emptyby Nguyễn Thành Sáng Tue Dec 05 2023, 12:32

» Thẫn Thờ Triền Miên
TRUYỆN CỔ TÍCH VIỆT NAM Emptyby Nguyễn Thành Sáng Fri Dec 01 2023, 16:32

» THƠ NGẮN
TRUYỆN CỔ TÍCH VIỆT NAM Emptyby Nguyễn Thành Sáng Mon Nov 27 2023, 16:47

» Tâm Sự Với Trăng
TRUYỆN CỔ TÍCH VIỆT NAM Emptyby Nguyễn Thành Sáng Tue Nov 21 2023, 21:29

» Thổn Thức Tiếng Lòng
TRUYỆN CỔ TÍCH VIỆT NAM Emptyby Nguyễn Thành Sáng Fri Nov 17 2023, 13:35

» Vậy Mà Ai Nỡ
TRUYỆN CỔ TÍCH VIỆT NAM Emptyby Nguyễn Thành Sáng Mon Nov 13 2023, 20:47

» Nỗi Nhớ Niềm Thương Dưới Nắng Tà
TRUYỆN CỔ TÍCH VIỆT NAM Emptyby Nguyễn Thành Sáng Thu Nov 09 2023, 22:35

» Thơ Tình Buồn
TRUYỆN CỔ TÍCH VIỆT NAM Emptyby Nguyễn Thành Sáng Fri Nov 03 2023, 13:19

» Nửa Mảnh Tình Xa
TRUYỆN CỔ TÍCH VIỆT NAM Emptyby Viễn Phương Wed Sep 20 2023, 02:14

» Quá Khứ Còn Đâu
TRUYỆN CỔ TÍCH VIỆT NAM Emptyby Viễn Phương Mon Sep 04 2023, 17:47

» Thơ Những Mối Tình Buồn (2)
TRUYỆN CỔ TÍCH VIỆT NAM Emptyby Nguyễn Thành Sáng Fri Jul 28 2023, 20:48

» Thơ Những Mối Tình Buồn
TRUYỆN CỔ TÍCH VIỆT NAM Emptyby Nguyễn Thành Sáng Thu May 18 2023, 10:10

» Chung Một Cõi Về
TRUYỆN CỔ TÍCH VIỆT NAM Emptyby Viễn Phương Mon May 01 2023, 18:30

» Xuân Phân Niềm Nhớ
TRUYỆN CỔ TÍCH VIỆT NAM Emptyby Viễn Phương Wed Apr 05 2023, 18:28

» Mê Trần
TRUYỆN CỔ TÍCH VIỆT NAM Emptyby Viễn Phương Sat Mar 11 2023, 19:38

» Tưởng Vọng Cố Nhân
TRUYỆN CỔ TÍCH VIỆT NAM Emptyby Viễn Phương Mon Feb 27 2023, 22:08

» Thơ Hay Ngắn Trích Đoạn
TRUYỆN CỔ TÍCH VIỆT NAM Emptyby Nguyễn Thành Sáng Tue Jan 31 2023, 09:32

» Đêm Đông
TRUYỆN CỔ TÍCH VIỆT NAM Emptyby Viễn Phương Tue Jan 17 2023, 20:09

» 1- Thơ Vui Mừng Năm Mới 2023
TRUYỆN CỔ TÍCH VIỆT NAM Emptyby Nguyễn Thành Sáng Mon Jan 16 2023, 09:27

» 2- Thơ Vui Mừng Năm Mới 2023
TRUYỆN CỔ TÍCH VIỆT NAM Emptyby Nguyễn Thành Sáng Mon Jan 16 2023, 09:26

» Hương Tình Thu
TRUYỆN CỔ TÍCH VIỆT NAM Emptyby Viễn Phương Mon Dec 19 2022, 03:42

» lục bát mùa thu
TRUYỆN CỔ TÍCH VIỆT NAM Emptyby Lê Hải Châu Sun Aug 28 2022, 09:51

» Tháng Tám Về
TRUYỆN CỔ TÍCH VIỆT NAM Emptyby Viễn Phương Thu Aug 04 2022, 18:42

» dại khờ
TRUYỆN CỔ TÍCH VIỆT NAM Emptyby Lê Hải Châu Mon Jun 20 2022, 08:32

» Tập Thơ Chọn Lọc - Nhất Lang (Nguyễn Thành Sáng)
TRUYỆN CỔ TÍCH VIỆT NAM Emptyby Nguyễn Thành Sáng Sat Jun 18 2022, 22:16

» TÌNH QUÊ
TRUYỆN CỔ TÍCH VIỆT NAM Emptyby Lê Hải Châu Wed Jun 15 2022, 08:36

» hương thầm
TRUYỆN CỔ TÍCH VIỆT NAM Emptyby Lê Hải Châu Wed May 25 2022, 08:12

» Trăm Ngày Xuân Vắng Nhau
TRUYỆN CỔ TÍCH VIỆT NAM Emptyby Viễn Phương Sun May 22 2022, 06:01

» nhuộm tóc
TRUYỆN CỔ TÍCH VIỆT NAM Emptyby Lê Hải Châu Wed May 18 2022, 10:57

» mùa lúa trỗ bông
TRUYỆN CỔ TÍCH VIỆT NAM Emptyby Lê Hải Châu Tue May 03 2022, 10:55

» hè ơi
TRUYỆN CỔ TÍCH VIỆT NAM Emptyby Lê Hải Châu Wed Apr 13 2022, 10:21

» Gửi Người Tình Lỡ
TRUYỆN CỔ TÍCH VIỆT NAM Emptyby Viễn Phương Sun Apr 03 2022, 17:44

» Biển Chiều Gọi Nhớ
TRUYỆN CỔ TÍCH VIỆT NAM Emptyby Viễn Phương Sat Mar 26 2022, 07:20

» nắng tháng ba
TRUYỆN CỔ TÍCH VIỆT NAM Emptyby Lê Hải Châu Wed Mar 23 2022, 10:56

» Hai Góc Tình Xa
TRUYỆN CỔ TÍCH VIỆT NAM Emptyby Viễn Phương Sun Mar 20 2022, 20:07

» TRANG THƠ LÊ HẢI CHÂU
TRUYỆN CỔ TÍCH VIỆT NAM Emptyby Lê Hải Châu Fri Mar 18 2022, 08:43

» Gởi Bạn Tri Âm
TRUYỆN CỔ TÍCH VIỆT NAM Emptyby Viễn Phương Fri Mar 11 2022, 08:52

» giấc mơ hồng
TRUYỆN CỔ TÍCH VIỆT NAM Emptyby Lê Hải Châu Sun Feb 06 2022, 08:25

» MỘT CHUYỆN HI HỮU
TRUYỆN CỔ TÍCH VIỆT NAM Emptyby Nguyễn Thành Sáng Sun Jan 30 2022, 13:23

» tìm lại người xưa
TRUYỆN CỔ TÍCH VIỆT NAM Emptyby Lê Hải Châu Sun Jan 30 2022, 11:27

» Xuân Là Em
TRUYỆN CỔ TÍCH VIỆT NAM Emptyby Viễn Phương Sat Jan 29 2022, 21:37

» chúc tết nhâm dần
TRUYỆN CỔ TÍCH VIỆT NAM Emptyby Lê Hải Châu Thu Jan 27 2022, 07:48

» vào xuân
TRUYỆN CỔ TÍCH VIỆT NAM Emptyby Lê Hải Châu Thu Jan 20 2022, 18:05

» RU ANH NỒNG NÀN (Mimosa)
TRUYỆN CỔ TÍCH VIỆT NAM Emptyby Viễn Phương Wed Jan 19 2022, 03:04

» nghề nông
TRUYỆN CỔ TÍCH VIỆT NAM Emptyby Lê Hải Châu Sat Jan 15 2022, 07:18

» sự đời
TRUYỆN CỔ TÍCH VIỆT NAM Emptyby Lê Hải Châu Tue Jan 04 2022, 08:39

» tết này em có về không
TRUYỆN CỔ TÍCH VIỆT NAM Emptyby Lê Hải Châu Sat Dec 25 2021, 17:24

» Tranh Thơ Giáng Thu Xưa
TRUYỆN CỔ TÍCH VIỆT NAM Emptyby Giáng Thu Xưa Tue Dec 21 2021, 04:28

» cái còi xe
TRUYỆN CỔ TÍCH VIỆT NAM Emptyby Lê Hải Châu Tue Dec 07 2021, 08:59

» nhớ mẹ chiều đông
TRUYỆN CỔ TÍCH VIỆT NAM Emptyby Lê Hải Châu Fri Dec 03 2021, 17:17

» khất lấy chồng
TRUYỆN CỔ TÍCH VIỆT NAM Emptyby Lê Hải Châu Thu Dec 02 2021, 07:07

» Xướng Họa - Đường Luật
TRUYỆN CỔ TÍCH VIỆT NAM Emptyby Gió Bụi Tue Nov 23 2021, 06:54

» Chiếc Nón Bài Thơ
TRUYỆN CỔ TÍCH VIỆT NAM Emptyby Gió Bụi Sun Nov 21 2021, 08:22

» thầy tôi
TRUYỆN CỔ TÍCH VIỆT NAM Emptyby Lê Hải Châu Thu Nov 18 2021, 08:12

» Xoắn Xuýt Tình Thơ
TRUYỆN CỔ TÍCH VIỆT NAM Emptyby Viễn Phương Tue Nov 16 2021, 09:06

» tuổi già
TRUYỆN CỔ TÍCH VIỆT NAM Emptyby Lê Hải Châu Sun Nov 07 2021, 06:42

» phận người
TRUYỆN CỔ TÍCH VIỆT NAM Emptyby Lê Hải Châu Mon Nov 01 2021, 10:03

» phận người
TRUYỆN CỔ TÍCH VIỆT NAM Emptyby Lê Hải Châu Mon Nov 01 2021, 10:01

» bà em
TRUYỆN CỔ TÍCH VIỆT NAM Emptyby Lê Hải Châu Sun Oct 31 2021, 08:32

» nói với con
TRUYỆN CỔ TÍCH VIỆT NAM Emptyby Lê Hải Châu Thu Oct 28 2021, 11:05

» giao mùa
TRUYỆN CỔ TÍCH VIỆT NAM Emptyby Lê Hải Châu Sat Oct 23 2021, 08:23

Đăng Nhập
Tên truy cập:
Mật khẩu:
Đăng nhập tự động mỗi khi truy cập: 
:: Quên mật khẩu
Tìm kiếm
 
 

Display results as :
 
Rechercher Advanced Search
May 2024
MonTueWedThuFriSatSun
  12345
6789101112
13141516171819
20212223242526
2728293031  
CalendarCalendar

 

 TRUYỆN CỔ TÍCH VIỆT NAM

Go down 
4 posters
Tác giảThông điệp
Ntd Hoa Viên

Ntd Hoa Viên



TRUYỆN CỔ TÍCH VIỆT NAM Empty
Bài gửiTiêu đề: TRUYỆN CỔ TÍCH VIỆT NAM   TRUYỆN CỔ TÍCH VIỆT NAM EmptyTue Dec 18 2012, 09:30

TRUYỆN TẤM CÁM


Ngày xưa, ở một làng quê nhỏ, có hai chị em nhà Tấm và Cám. Tấm là chị, con của vợ cả. Cám là em, con của vợ hai. Hai chị em Tấm và Cám hơn kém nhau không là mấy. Mẹ Tấm mất từ khi Tấm còn rất bé. Bố lấy vợ hai và Cám là con riêng của bà ta. Nhưng cũng chỉ được mấy năm thì bố Tấm cũng theo mẹ mà đi. Tấm ở với dì ghẻ và Cám. Mẹ của Cám là người rất độc ác và cay nghiệt. Ngày ngày, tấm phải làm lụng rất vất vả, hết chăn trâu lại cắt cỏ, gánh nước, vớt bèo, thái khoai cho lợn. Đêm đến Tấm lại còn phải xay lúa giã gạo, đến khi nào hết việc mới được ngủ.

Cám là một cô gái xấu người, xấu nết, làm thì lười mà ăn thì nhiều, được mẹ nuông chiều chỉ thích sắm quần áo đẹp không đụng đến một việc gì trong nhà.

Dường như trời đẩt hiểu được nỗi khổ của Tấm, nên đã ban cho cô ngày càng xinh đẹp, da của cô trắng hồng, tính tình thùy mị, hiền hòa, Tấm được mọi người quý mến và yêu thích.

Có một hôm, dì ghẻ gọi Tấm và Cám đến, đưa cho hai chị em mỗi người một giỏ bảo ra đồng bắt tôm tép. Ai bắt đầy giỏ thì sẽ được thưởngg một cái yếm đỏ đẹp.

Đến đồng, Tấm là một người chăm chỉ lại quen với việc mò cua bắt ốc nên chỉ bắt một lúc là đầy giỏ. Còn Cám đã lười lại không quen với việc đồng áng, nên chỉ bắt được vài con rồi đủng đỉnh ngồi chơi.

Khi thấy giỏ của Tấm đã đầy, Cám liền nẩy ra ý định lấy số tôm, cá của Tấm. Cám nói:

-Chị Tấm ơi chị Tấm, đầu chị lấm. Chị hụp cho sâu, kẻo về dì mắng.

Tấm tưởng Cám nói thật, bèn đưa giỏ của mình cho Cám nhờ giữ hộ rồi ra ao lội xuống tắm. Trên bờ, Cám thừa cơ trút hết chỗ tép của Tấm vào giỏ của mình và chạy về nhà khoe mẹ.

Khi Tấm lên bờ, không thấy Cám đâu, chỉ thấy giỏ của mình vứt lăn lóc trên bờ, trong giỏ không còn con tôm, con tép nào, Tấm hiểu ra sự tình, sợ về nhà dì ghẻ lại đánh, Tấm ngồi xuống bưng mựt khóc hu hu.

Tiếng khóc của Tấm đã làm Bụt động lòng. Bụt hiện lên và hỏi:

-Làm sao con khóc?

Tấm nghe thấy có người hỏi mình, ngẩng đầu lên thấy một ông già râu tóc bạc phơ. Tấm tin đó là người tốt bèn kể lại sự tình cho Bụt nghe. Bụt liền bảo:

-Thôi con đừng khóc nữa! Con hãy xem giỏ của mình có còn con gì ở trong đó không?

Tấm nhìn vào giỏ rồi nói:

-Thưa cụ, con chỉ thấy còn một con bống thôi ạ.

- Con hãy đem con cá bống này về, thả nó xuống giếng và nuôi nó. Con nhớ kỹ, khi nào ăn ba bát cơm thì con để lại một bát đem thả xuống giếng để cho bống ăn. Mỗi lần cho bống ăn, con phải gọi “Bống bống bang bang, lên ăn cơm vàng cơm bạc nhà ta. Chớ ăn cơm hẩm cháo hoa nhà người”. Khi con gọi như vậy, con bống sẽ bơi lên mặt nước để ăn cơm.

Nói xong Bụt biến mất. Tấm rất ngạc nhiên và hiểu rằng tiên ông đang giúp đỡ cô. Theo như lời dặn, hằng ngày Tấm đều để dành một bát cơm cho bống. Mỗi lần cho bống ăn, Tấm lại gọi bống như lời Bụt đã dặn, cứ mỗi lần Tấm gọi, con cá bống bơi lên mặt nước và ăn phần cơm mà Tấm cho. Cá và người như quen biết và thân thuộc nhau, cứ quấn quýt lấy nhau. Ngày lại ngày, bống lớn lên trông thấy.

Nhưng những gì Tấm làm đều không qua được mắt mẹ con nhà Cám, mụ dì ghẻ sinh nghi thấy mỗi lần ăn cơm Tấm lại để dành một bát cơm, bèn cho Cám đi rình xem có chuyện gì. Cám nấp sau bụi cây, thấy Tấm bưng bát cơm ra giếng và gọi bống. Cám bèn nhẩm đọc cho thuộc rồi về kể lại với mẹ.

Bữa ấy, dì ghẻ gọi Tấm đến và nói:

- Con ơi! Làng ta bây giờ cấm không cho trâu ăn ở đồng, sợ trâu sẽ làm hỏng hết lúa. Ngày mai con phải đi chăn trâu ở đồng xa, chớ có chăn ở đồng gần mà làng bắt mất trâu.

Tấm tưởng thật vâng lời. Sáng hôm sau, Tấm dậy sớm và đưa trâu đi ăn thật xa. Chỉ đợi cho Tấm đi khuất, mẹ con nhà Cám liền bưng bát cơm ra và gọi:

- Bống bống bang bang, lên ăn cơm vàng bạc nhà ta. Chớ ăn cơm hẩm cháo hoa nhà người.

Nghe lời gọi, bống quen mới ngoi lên mặt nước để đớp những hạt cơm. Nhưng mẹ con Cám đã trực sẵn, đợi cho bống ngoi lên liền chụp bắt đem bống về nhà mổ thịt ăn.

Buổi chiều, khi đi chăn trâu về, Tấm ngồi ăn cơm như thường lệ, sau khi ăn cơm xong Tấm lại mang bát cơm để dành ra giếng gọi bống. Tấm gọi mãi, gọi mãi mà chẳng thấy bống đâu cả, chỉ thấy một cục máu nổi lên mặt nước. Biết là có điều chẳng lành cho bống. Tấm oà khóc. Bụt lại hiện lên và hỏi:

- Làm sao con khóc?

Tấm ngẩng lên thấy ông lão hôm nào giúp mình, bèn kể hết sự tình cho Bụt nghe. Nghe xong Bụt bảo:

- Thôi con hãy nín đi, bống của con đã bị người ta bắt đem mổ thịt ăn mất rồi. Bây giờ con hãy vào nhà, tìm lấy xương cá bống cho vào bốn cái lọ và chôn nó vào dưới bốn chân giường con nằm.

Tấm trở về nhà, làm theo lời Bụt dặn, đi tìm xương bống, nhưng tìm hết cả góc sân, xó vườn mà không thấy xương bống đâu. Một con gà không biết từ đâu chạy đến bảo Tấm:

- Cục ta cục tác, cho ta nắm thóc, ta bới xương cho.

Tấm nghe thấy vậy liền chạy vào bốc một nắm thóc cho gà ăn. Gà ăn xong chạy vào bếp bới một lúc thì thấy xương của cá bống bị vùi trong đó. Tấm bèn nhặt lấy xương, bỏ vào lọ và đem chôn ở bốn chân giường mình nằm.

Ít lấu sau, nhà vua mở hội linh đình trong mấy ngày đêm. Tất cả già trẻ gái trai các làng quần là áo lượt, mớ ba mớ bảy cùng nhau đổ về kinh thành.

Hai mẹ con Cám cũng đi sắm sửa quần áo đẹp để đi trảy hội. Tấm thấy mọi người dập dìu đi xem hội, trong lòng cũng muốn đi xem. Nhưng mụ dì ghẻ như đoán trước được ý định của Tấm. Trước khi đi, mụ đổ một đấu thóc vàomột đấu gạo và gọi Tấm ra bảo

- Con hãy nhặt cho xong chỗ gạo này, con phải để riêng gạo ra một nơi, thóc ra một nơi, rồi con mới được đi xem hội. Nếu nhặt không xong thì không được đi đâu đấy.

Nói đoạn, hai mẹ con Cám quần áo xúng xính lên đường. Còn lại một mình với thúng thóc gạo lẫn lộn, Tấm ngồi nhặt mãi mà không thấy nó bớt đi chút thóc nào. tấm nghĩ nếu ngồi nhặt hết chỗ này thì sẽ không được đi xem hội mất. Tủi thân Tấm bưng mặt khóc hu hu. Gữa lúc đó, Bụt hiện lên và hỏi:

- Làm sao con khóc?

Tấm nhìn thấy Bụt và chỉ vào thúng thóc:

- Vua mở hội mấy ngày đêm, mọi người đã đi xem hết rồi, con bị dì bắt ở nhà nhặt cho số thóc gạo này riêng ra thì mới được đi xem hội. Mà lúc con nhặt xong thì hội đã tàn không còn gì mà xem.

- Con đừng khóc nữa, con mang cái thúng đặt ở sân, để ta sai chim sẻ xuống nhặt giúp con và con hãy nói với chúng rằng: Chim sẻ yêu, chim sẻ quý. Hãy giúp ta nhặt thóc gạo. Nhưng đừng ăn hạt nào kẻo ta bị đánh đòn.

Bụt nói xong rồi biến mất. Ở trên không một đàn chim sẻ xà xuống. Nhớ lời Bụt dặn, Tấm nói lại lời nói lúc nãy. Đàn chim sẻ liền nhặt riêng thóc ra một bên. Chúng lăng xăng ríu rít chỉ một loáng là xong, không có bớt đi một chút nào. Khi chim sẻ nhặt xong, Tấm vào nhà tìm quần áo đẹp để đi xem hội nhưng chẳng còn bộ nào mới cả, chỉ toàn quần áo vá và cũ mà thôi. Tấm lại khóc nức nở, lần này Bụt hiện lên và hỏi:

-Con gái, làm sao con lại khóc?

- Con không có quần áo đẹp, không đi xem hội được.

- Con hãy đào những lọ xương bống mà con chôn ở chân giường lên, con sẽ có những thứ mà con muốn.

Tấm vâng lời Bụt và đi đào bốn lọ ở bốn chân giường lên. Đào lọ thứ nhất, Tấm lấy ra được bộ quần áo mới rất đẹp, màu sắc sặc sỡ trong đó có một cái yếm lụa đỏ mà Tấm hằng mơ ước. Đào lọ thứ hai, Tấm lấy ra được một đôi hài thêu. Đào lọ thứ ba, Tấm thấy có một con ngựa bé xíu ở trong đó. Khi Tấm đặt con ngựa xuống đất, nó trở nên to lớn và có bộ lông màu trắng như bông. Đào lọ thứ tư, thấy một bộ yên cương xinh xắn.

Nhìn thấy vậy, Tấm mừng quá cô vội vàng thay bộ áo mới, đi đôi hài thêu có đính những hạt cườm nhỏ, thắng bộ yên cương cho con ngựa trắng. Sửa soạn xong xuôi, Tấm cưỡi lên lưng ngựa đi đến kinh thành dự hội.

Lúc này nhìn Tấm đẹp lộng lẫy trong bộ xiêm y mới, con ngựa màu trắng trông rất hợp với cô. Tấm đi đến đâu, ai cũng trầm trồ khen ngợi. Khi đi đến kinh thành, tiếng loa của quân lính kêu vang báo vua đã đến. Tấm lúc này luống cuống, thúc con ngựa đi qua cây cầu. Trong lúc vội vàng, cô làm rớt một chiếc hài thêu, nhưng không kịp xuống nhặt nữa. Người và ngựa cứ thế đi thẳng qua cầu để nhường đường cho vua đi.

Đàn voi của vua lúc đó cũng đã đi đến cầu. Đi đến giữa cầu chúng không chịu đi mà cứ đứng lại cắm đầu xuống kêu rống lên. Vua lấy làm lạ, liền sai quân lính xuống sông xem nguyên cớ tại sao đàn voi của mình không chịu đi. Khi quân lính xuống sông, họ mò tìm được một chiếc hài phụ nữ thêu rất đẹp. Vua lấy làm thích thú và sai quân lính đi báo tin: Nếu ai mà đi vừa chiếc hài này vua sẽ lấy làm vợ.

Thế là, các bà các chị đua nhau ra thử hài. Họ muốn mang đến cho mình một vận may. Nếu đi vừa, họ sẽ được làm hoàng hậu. Trong số những người đi thử đó cũng có mặt mẹ con nhà Cám. Mãi gần trưa, bao nhiêu người thử cũng không ai đi vừa chiếc hài. Lúc đó, Tấm đi qua thấy đám đông, tưởng có trò gì vui liền vào xem. Tấm nhìn thấy chiếc hài đó rất giống hài của mình. Tấm liền vào đi thử thì mọi người reo lên: “Vừa như in”. Nàng liền mở khăn lấy luôn chiếc hài còn lại đi vào chân. Hai chiếc hài giống nhau y đúc.

Nhà vua rất vui mừng, ngài không những gặp được người đi vừa chiếc hài mà người con gái đó lại rất xinh, nước da nàng trắng mịn. Người ta vui mừng reo hò, chúc mừng nhà vua đã tìm được một người vợ thật xứng đáng. Lập tức vua sai đoàn thị nữ rước Tấm vào cung. Tấm bước lên kiệu trước con mắt ngạc nhiên của mẹ con Cám và sự reo hò của bà con dự hội.

Từ khi vào cung, Tấm được sống sung sướng, ăn ngon mặt đẹp và được vua vô cùng yêu quý vì đức tính hiền dịu của cô. Tấm đối xử với mọi người rất hoà thuận, không thấy có lời chê trách nào về bà hoàng hậu mới. Nhưng cuộc sống trong nhung lụa không làm Tấm bớt được nỗi nhớ quê nhà.

Nhân ngày giỗ cha, nàng xin phép vua cho nàng được về cúng giỗ. Tuy rất buồn nhưng vua vẫn cho đoàn tùy tùng đưa nàng về. Về đến nhà. bề ngoài mẹ con Cám rất vui mừng, chào đón nồng hậu, nhưng bên trong thấy Tấm sung sướng hạnh phúc mẹ con Cám ghen ghét hậm hực. Mụ dì ghẻ liền nghĩ ra một mưu kế, mụ gọi Tấm lại và bảo:

- Bố con lúc sống rất thích ăn trầu cau, con thì trước kia quen trèo cau rồi. Con hãy lên đó hái một buồng xuống rồi con têm cơi trầu cánh phượng để dì cúng bố con.

Tấm không nghi ngờ gì cả vâng lời trèo lên cây cau. Lúc Tấm trèo lên sát buồng cau thì ở dưới này mẹ con Cám cầm dao đẵn gốc. Thấy cây rung, Tấm liền hỏi:

-Dì ơi, dì làm gì ở dưới gốc đó?

- À, gốc cau rất lắm kiến, dì sợ nó bò lên đốt con nên duổi nó đi.

Tấm tin lời dì nói là thật tiếp tục hái cau. Nhưng Tấm chưa kịp hái xong buồng cau thì cây cau đã đổ ùm xuống. Tấm ngã lộn cổ xuống ao và chết. Mụ dì ghẻ thấy Tấm đã chết liền lấy quần áo đẹp của Tấm mặc vào cho Cám rồi đưa Cám vào cung.

Nhìn thấy vua, mẹ con mụ liền khóc lóc kể lể với vua là Tấm do sơ ý trượt chân ngã xuống ao chết đuối, nay đưa Cám vào cung thay thế chị cho vua đỡ buồn và hiu quạnh. Vua nghe thấy Tấm chết trong lòng rất đau buồn, vội chạy vào phòng riêng khóc lóc, chẳng để ý gì đến chuyện Cám vào cung thay thế chị.

Từ lúc Tấm chết vua ít nói ít cười hơn, mặt lúc nào cũng trầm tư chẳng ngó ngàng gì đến Cám. Còn Tấm, sau khi chết, nàng hoá thành một con chim vàng anh xinh xắn. Vàng anh bay về kinh thành đến vười ngự. Thấy Cám đang giặt áo cho vua ở giếng, Vàng anh dừng lại trên cành cây và hót vang:

-Giặt áo chồng tao thì giặt cho sạch. Phơi áo chồng tao thì phơi bằng sào, chớ phơi bờ rào. Rách áo chồng tao.

Cám nghe thấy vậy sợ quá bỏ cả áo vua đấy chạy mất. Còn Vàng anh bay thẳng vào cung vua. Thấy vua đi đâu, Vàng anh bay theo đến đó. Vua thấy chim bay theo thì rất vui, ngày ngày lại nghe thấy tiếng chim hót, nỗi nhớ thương Tấm trong lòng vua vơi bớt phần nào. Một bữa nọ, đang ngồi trong vườn thượng uyển, thấy chim quẩn quanh bên mình vua bèn nói:

- Vàng ảnh vàng anh, có phải vợ anh chui vào tay áo.

Vua vừa dứt lời con chim đã nhảy lên tay và chui vào cánh tay áo của vua. Từ đó chim và người lúc nào cũng quấn quýt bên nhau. Vua còn sai làm cho chim một chiếc lồng sơn son thiếp vàng thật đẹp để cạnh giường của vua.

Mỗi sáng thức dập, chim Vàng anh lại hót cho vua nghe. Cám thấy vậy tức lắm bèn chạy về nhà mách mẹ. Mẹ Cám liền bày cho một cách, đem bắt chim đi mổ thịt. Cám nghe theo lời mẹ, lừa lúc vua đi vắng bắt chim mổ thịt ăn rồi vứt lông chim ở ngoài vườn. Khi vua về, thấy mất Vàng anh, vua buồn lắm.

- Cám nói: “Giống chim nó không thích gì cảnh bị nhốt trong lồng, chắc nó đã đi tìm phương trời của nó!” Nhưng nhà Vua chỉ im lặng.

Lông chim của Vàng anh ở vườn hoá thành hai cây xoan đào. Cây không có người chăm sóc nhưng lớn rất nhanh, cành lá xum xuê, xanh tốt. Khi vua đi chơi vườn ngự, cành lá của chúng sà xuống che kín thành bóng mát cho vua khỏi nắng. Thấy lạ, vua liền sai lính đem võng ra mắc vào hai cây xoan đào nằm hóng mát. Từ khi có hai cây xoan đào, vua ngày nào cũng ra đó nghỉ trưa. Mỗi lần vua ra, lá xoan đào lại rì rào như đang tâm sự cùng vua.

Lần này Cám hậm hực về nói với mẹ. Hai mẹ con bàn bạc. Mẹ Cám bảo: Phải chặt cây xoan đào đó đi, rồi sai lính hầu đóng một khung cửi để dệt áo cho vua. Nhưng thật là lạ, mỗi lần Cám ngồi vào dệt thì khung dệt lại kẽo kẹt phát ra tiếng trách móc: “Kẽo cà kẽo kẹt, lấy tranh chồng chị, chị khoét mắt ra”.

Cám sợ hãi sai quân lính đem khung cửi đi đốt, sau đó đem tro của nó đi đổ thật xa để đỡ bị quấy rầy. Nhưng đống tro bên đường không bị bay đi theo gió, mà từ đó mọc lên một cây thị. Cây lớn nhanh chóng. Đến mùa thị năm ấy, cây thị chỉ ra được một quả nhưng lại rất to, mùi thơm của nó ngào ngạt tỏa ra khắp vùng. Một bà lão bán hàng nước gần đó đi qua, thấy quả thị to và thơm, bà rất thích, bà lão bè giơ bị của mình lên và nói:

- Thị ơi, thị rơi bị bà, bà để bà ngửi chứ bà không ăn.

Bà lão vừa dứt lời thì quả thị rơi ngay xuống bị của bà. Bà lão thấy vậy mừng lắm, mang về nhà cất vào buồng và nâng niu nó như đứa con nhỏ của mình.

Có một điều lạ, mỗi lần bà lão đi chợ vắng, từ quả thị chui ra một cô gái xinh đẹp. Cô gái cầm chổi quét dọn nhà cửa sạch sẽ, rồi vo gạo thổi cơm, hái rau ở vườn nấu canh cho bà cụ. Khi đi chợ về, bà lão thấy nhà cửa mình ngăn nắp, ngạc nhiên lắm. Bà lão gọi mãi không ai trả lời, nghĩ rằng chắc hàng xóm thương bà cô đơn đến giúp. Nhưng vài ngày như vậy bà lão sinh nghi. Một hôm bà giả vờ đi chợ, đi được nửa đường bà quay về rình ở bụi cây sau nhà. Bà thấy quả thị nứt ra, một cô gái từ đó chui ra, nhìn cô xinh xắn và chăm chỉ quét dọn nhà cửa, bà mừng lắm. Bà liền chạy vào nhà xé vụn vỏ thị, rồi chạy lại ôm lấy cô gái. Từ đó hai người sống với nhau như hai mẹ con. Hàng ngày, bà lão đi chợ bán hàng, cô gái ở nhà giúp bà lão nấu cơm, dọn nhà và cô thỉnh thoảng têm trầu để bà cụ bán.

Một hôm, vua đi ngoạn cảnh bên ngoài cung đình. Đến một vùng quê, thấy có quán nước bên đường sạch sẽ, vua bèn ghé vào. Một bà lão phúc hậu mang trầu và nước ra dâng lên vua. Nhìn thấy trầu têm cánh phượng xin xắn, vua lại nhớ đến người vợ yêu của mình ngày trước. Vua liền cho hỏi, bà lão trả lời:

- Trầu này là do con gái già têm. Nó là một đứa hiền lành, ngoan ngoãn lắm.

- Con gái bà cụ đâu, hãy gọi ra đây cho ta xem mặt. – Nhà vua nói.

Bà lão vào nhà gọi cô gái ra. Cô gái vừa xuất hiện, vua vui mừng và ngạc nhiên nhận ra người con gái đó chính là vợ mình ngày xưa. Bây giờ Tấm có phần còn trẻ đẹp hơn xưa.

Hai vợ chồng gặp nhau, mừng mừng tủi tủi và quyến luyến bên nhau. Vua bèn bảo bà lão kể lại sự tình, rồi cho quân hầu đưa kiệu rước Tấm và bà lão về cung.

Sau đó nhà Vua ra lệnh đuổi Cám về quê. Nghe đâu, sau đó ít lâu cả hai mẹ con đều chết. Họ chết vì ân hận mình quá tàn ác hay là chết vì xấu hổ, bị làng xóm chê cười?!


(Bích Hằng tuyển chọn)

Nguồn: Nhà Xuất Bản Văn Hóa Thông Tin
Người Type: Tiếng Mưa Đêm
Về Đầu Trang Go down
Ntd Hoa Viên

Ntd Hoa Viên



TRUYỆN CỔ TÍCH VIỆT NAM Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: TRUYỆN CỔ TÍCH VIỆT NAM   TRUYỆN CỔ TÍCH VIỆT NAM EmptyTue Dec 18 2012, 09:34

TRẢ LẠI GƯƠM THẦN
(SỰ TÍCH HỒ GƯƠM)



Ngày ấy, giặc Minh kéo đến xâm lược và đặt ách đô hộ lên ta. Ở đâu chúng cũng đàn áp, bóc lột nhân dân ta thậm tệ. Lòng dân ngày càng phẫn uất, ai ai cũng căm ghét quân Minh đến tận xương tủy.

Vào hồi đó, ở làng Như Áng, huyện Lương Giang, phủ Thanh Hoá có một hào trưởng có tên Lê Lợi. Lê Lợi có sức khoẻ phi thường, tinh thông võ nghệ. Ông vốn giàu lòng từ thiện, bao dung nên rất được mọi người mến mộ. Trước cảnh nhân dân lầm than, điêu đứng dưới ách đô hộ tàn bạo của giặc Mình, Lê Lợi vô cùng căm phẫn, ông đã triệu tập binh mã, tích trữ lương thảo, chờ thời cơ vùng lên khởi nghĩa chống quân xâm lược.

Cùng thời gian ấy, ở Thanh Hoá có một người tên là Lê Thận, thường đánh cá trên bờ sông gần bến đò Mục Sơn. Một đêm nọ như mọi ngày, Thận thả lưới ở một bến vắng. Trong một lần kéo lưới chàng thấy nằng nặng tay. Chàng mừng thầm trong bụng vì chắc mẩm sẽ được một mẻ cá lớn. Nhưng khi kéo lưới lên thì Thận chỉ nhìn thấy một thanh sắt cũ, chàng liền vứt thanh sắt đó xuống nước, rồi đi đến chỗ khác để thả lưới. Lần thứ hai cất lưới lên, Lê Thận lại thấy nặng tay, nhưng khi kéo lên thì vẫn là thanh sắt đó mắc vào lưới. Tức giận, Thân ném luôn thanh sắc xuống nước rồi lại đi thả lưới ở khúc sông khác xa hơn chỗ đó. Kéo lưới lần thứ ba lên vẫn thấy thanh sắt ấy Thận thấy chuyện lạ bèn mang thanh sắt đó về nhà. Sau khi đã cọ rửa sạch thanh sắt rồi đưa lại gần lửa để xem, Lê Thận phát hiện ra đó chính là một lưỡi gươm báu đã thất truyền từ lâu trong dân gian.

Về sau, khi Lê Lợi thành lập nghĩa quân Lam Sơn, Lê Thận cũng xin gia nhập và trở thành một trong số những người thân tín nhất của Lê Lợi. Một đêm nọ, chủ soái Lê Lợi cùng vài người tùy tùng đến chơi nhà Lê Thận. Trong căn nhà tối om, lưỡi gươm mà Lê Thận kéo lưới được tự nhiên ánh lên những tia sáng lạ thường. Lê Lợi đến gần cầm lên xem, nhận ra trên thanh gươm có khắc chìm hai chữ “Thuận Thiên” có nghĩa là vâng theo ý trời. Nhưng lúc này vẫn chưa ai nghĩ đó là một báu vật hiếm có. Bấy giờ, do nghĩa quân mới thành lập nên quân lính còn ít, lại thường hay bi giặc Minh đuổi đánh nên nghĩa quân gặp rất nhiều khó khăn.

Một lần, quân khởi nghĩa do Lê Lợi chỉ huy thua nặng. Bị quân giặc đuổi đánh phía sau, Lê Lợi vội vàng chạy trốn vào một khu rừng gần đó. Đến giữa rừng, đột nhiên Lê Lợi nhìn thấy một vầng ánh sáng rất khác thường trên ngọn cây đa. Vốn là người can đảm, Lê Lợi bèn trèo lên cây xem thì thấy có một chuôi gươm nạm ngọc mắc trên cây. Chợt nhớ tới lưỡi gươm ở nhà Lê Thận đêm hôm nào, Lê Lợi liền giắt chuôi gươm vào lưng rồi tìm đường trở về căn cứ.

Ngày hôm sau, khi gặp lại nghĩa quân trong đó có cả Lê Thận, Lê Lợi lấy chuôi gươm ra rồi lắp vào với lưỡi gươm của Lê Thận thì thấy vừa như in. Sau khi Lê Lợi kể cho mọi người nghe câu chuyện của mình, thì ai ai cũng vô cùng ngạc nhiên và vui sướng. Mọi người liền quỳ rạp xuống và nói với Lê Lợi:

-Đó là trời đất có ý, phó thác cho minh công làm việc lớn. Chúng tôi nguyện đem hết sức mình phò tá người để hoàn thành nghiệp lớn.

Từ đó, chiếc gươm thần luôn bên mình Lê Lợi, cùng ông tung hoành trong các trận đánh, khiến cho quân địch phải nhiều phen khốn đốn.

Sau mười năm gian khổ kháng chiến (từ 1418 đến 1427), Lê Lợi đã lãnh đạo cuộc khởi nghĩa của nhân dân đi đến thắng lợi cuối cùng, giải phóng hoàn toàn, đất nước thoát khỏi tay giặc Minh xâm lược. Lê Lợi lên ngôi vua lấy hiệu là Lê Thái Tổ, lập nên nhà hậu Lê. Từ đó, dân chúng được an cư lạc nghiệp, vui hưởng thái bình.

Một năm sau, vào một ngày đẹp trời, vua Lê Thái Tổ cưỡi thuyền rồng dạo chơi trên hồ Tả Vọng, một chiếc hồ đẹp nằm giữa lòng Kinh đô. Khi thuyền ra tới giữa hồ, đột nhiên xuất hiện một con rùa lớn, nhô đầu lên khỏi làn nước trong xanh, tiến về phía thuyền nhà vua. Chiếc thuyền rồng bỗng đi chậm dần rồi dừng lại, thanh gươm thần bên mình nhà vua tự nhiên cử động. Rùa vàng hướng đầu về phía nhà vua rồi cất tiếng nói:

-Xin bệ hạ hoàn trẻ lại gươm thần cho Long Quân.

Vua chợt hiểu ra, rút vội thanh gươm báu ra rồi quỳ xuống nâng lên ngang đầu. Thanh gươm thần rời khỏi tay nhà vua, bay về phía Rùa vàng. Rùa vàng há miệng ngậm ngang thanh gươm rồi từ từ lặn xuống nước. Tuy cả gươm và Rùa vàng đã chìm sâu xuống nước rồi, nhưng trên mặt hồ vẫn ánh lên một một vệt sáng kỳ lạ. Vua Lê Thái Tổ liền cho truyền các văn võ bá quan tới và phán rằng:

- Đức Long Quân đã cho ta mượn thanh gươm báu để diệt trừ giặc Minh, xây dựng cơ đồ. Nay đất nước đã bình yên, nên Ngài sai Rùa Vàng lên lấy lại gươm báu.

Kể từ ngày đó hồ Tả Vọng được đổi tên là hồ Hoàn Kiếm hã còn gọi là Hồ Gươm.


(Bích Hằng tuyển chọn)

Nguồn:Nhà Xuất Bản Văn Hóa Thông Tin
Người Type: Tiếng Mưa Đêm
Về Đầu Trang Go down
Ntd Hoa Viên

Ntd Hoa Viên



TRUYỆN CỔ TÍCH VIỆT NAM Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: TRUYỆN CỔ TÍCH VIỆT NAM   TRUYỆN CỔ TÍCH VIỆT NAM EmptyWed Dec 19 2012, 11:14

THẦN BÚT MÃ LƯƠNG


Mã Lương là cậu bé rất thích vẽ và vẽ cũng giỏi, nhưng vì nhà nghèo, cậu không có nổi một cây bút để vẽ.

Một hôm Mã Lương đi chăn trâu, đi qua nhà một người thợ vẽ. Người thợ đang say sưa vẽ một bức tranh phong cảnh cho viên quan đang đợi lấy về treo ở ngôi nhà mới.

Mã Lương đứng xem một cách mải mê. Rồi không kìm được, cậu bước lại gần người thợ vẽ và rụt rè nói: “Ông cho cháu một cây bút được không? Cháu thích vẽ lắm!” Nghe cậu nói thế viên quan và người thợ vẽ cười ha hả và nói: “Thằng bé ăn mày này mà cũng muốn học vẽ à? Thôi cút đi chỗ khác!”

Họ đuổi Mã Lương đi, cậu buồn rầu tự hỏi: “Chẳng lẽ người nghèo thì không được học vẽ hay sao?...” Nếu ta có một cây bút vẽ thì chưa chắc...

Từ đó, cậu càng nuôi chí học vẽ. Khi lên rừng hái củi, dựng gánh củi bên bờ suối, Mã Lương liền dùng cành khô vẽ chim muông, cây cỏ lên bờ cát. Khi đi cắt cỏ bên sông, cậu lại dùng nhánh cỏ vẽ đàn cá bơi trong làn nước.

Đêm về, cậu vẽ lại những bức tranh đã vẽ ban ngày. Chẳng bao lâu, trên tường nhà Mã Lương kín đầy những hình vẽ thiên nhiên, chim muông, phong cảnh làng quê…

Có người hỏi Mã Lương: “Cậu học vẽ giỏi để sau này đi vẽ cho các quan lớn lấy tiền phải không?”

Mã Lương lắc đầu: “Tôi thì không như vậy, tôi chỉ vẽ cho người nghèo thôi!”

Ngày tháng thấm thoắt qua đi, Mã Lương vẽ ngày một đẹp hơn. Cậu vẽ ở đầu thôn một chú gà con, đén nỗi diều hâu tưởng nhầm gà thật, đã lượn vòng quanh hình vẽ đó mãi. Trên vách núi, cậu vẽ một con chó sói màu đen, khiếndê bò… cứ tưởng sói thật, đã không dám đến gặm cỏ gần đó.

Thế mà Mã Lương vẫn chưa có một chiếc bút vẽ. Một buổi tối nọ, nằm trên giường ngắm những hình do mình vẽ trên bốn mặt tường, Mã Lương thở dài “Ước gì mình có một chiếc bút vẽ thì sung sướng biết bao!...”

Bỗng nhiên trước mặt cậu xuất hiện một vầng hào quang tỏa sáng lấp lánh:

“Bây giờ con đã có một chiếc bút rồi!” - Một ông tiên râu tóc bạc phơ hiện lên và đưa chiếc bút cho cậu. “Mã Lương, con hãy nhớ lấy lời con đã nói, hãy đi vẽ cho người nghèo”. “Cám ơn ông ạ!” Mã Lương sung sướng nhận lấy chiếc bút. Ông tiên lập tức biến mất.

Mã Lương vui sướng cầm bút vẽ lên tường một con gà trống. Kỳ lạ thay, gà trống cử động được.

Từ trên tường, gà trống nhẩy xuống rồi bay đậu bên cửa sổ, cất tiếng gáy vang! Hoá ra đây là một chiếc bút thần! Mã Lương vui sướng tưởng đến phát điên lên được!

Có bút thần, Mã Lương vẽ thử một vài thứ khác, cậu vẽ cái gì, cái đó hiện ra ngay.

Một hôm Mã Lương đi qua cánh đồng, thấy ông lão gầy còm đang kéo cày và một bé gái vất vả cầm cày. Ruộng lầy lội, hai cha con cực nhọc dưới nắng hè đổ lửa.

Mã Lương liền cầm bút vẽ một con trâu. – Ò!... Con trâu kêu lên một tiếng và lội xuống ruộng kéo cày thay cho ông lão.

Đúng lúc đó, viên quan đưa lính đến bắt Mã Lương, vì chúng nghe nói Mã Lương có cây bút thần.

Viên quan điệu Mã Lương về phủ và bắt cậu vẽ cho hắn những đồng tiền vàng. Mã Lương căm giận lắm, những vẫn phải lễ phép: Thưa quan, tôi không biết vễ tiền.

Viên quan tức tối nhốt Mã Lương vào ngục.

Nửa đêm, khi lính canh đã ngủ say, Mã Lương liền lấy bút ra vẽ một cái cửa trên bức tường nhà ngục.

Mã Lương khẽ đẩy vào cánh cửa vừa vẽ trên tường, cửa liền bật mở. Mã Lương vui sướng gọi: - “Bà con ơi! Xhạy đi!...”

Những người nghèo đang bị nhốt trong ngục đều chạy theo cậu ra ngoài.

Thấy Mã Lương chạy trốn, viên quan sai lính đuổi bắt. Mã Lương vẽ ngay một con ngựa, lập tức bức tranh biến ngay thành con ngựa thật. Cậu leo lên ngựa và phóng đi, lũ quan quân không sao đuổi kịp.

Mã Lương không thể về nhà, cậu phải lưu lạc khắp nơi. Cậu đi vẽ cho người nghèo, họ thiếu cái gì, cậu liền vẽ cho cái ấy.

Một hôm Mã Lương qua một vùng đang bị hạn nặng. Mọi người không có guồng nước, họ phải dùng thùng để gánh nước rất vất vả. Cậu nói: “Tôi sẽ vẽ cho mọi người mấy cái guồng nước!”.

Có guồng nước, ai nấy rất vui mừng. Bỗng nhiên có mấy tên lính xông ra dùng dây trói Mã Lương và lôi đi.

Viên quan ngồi trên bục quát:

- Đưa Mã Lương vào đây!

Hắn giật lấy bút thần và truyền gọi người thợ vẽ đến.

Hắn ta cúi đầu nói:

- Dạ thưa, ngài định vẽ cái gì ạ?

- “Vẽ cây tiền”!

Người thợ vẽ cầm bút thần của Mã Lương và vẽ một cây đầy tiền. Chiếc cây đẹp lắm, nhánh cây bằng bạc, mỗi bông hoa là một đồng tiền vàng. Viên quan thích chí vội chạy đến rung cây, đầu hắn va vào tường sưng vù lên. Tranh vẫn là tranh, chẳng có đồng tiền thật nào rơi xuống cả.

Không còn cách nào khác, viên quan đành trả bút thần cho Mã Lương và dỗ dành: - “Mã Lương! Hãy vẽ cho ta đi!”

Mã Lương giật lấy bút. Cậu đã tính kỹ rồi, liền nói: - “Vâng! Tôi sẽ vẽ cho ngày ngay đây!” Thấy Mã Lương nói vậy, viên quan sướng quá, vội bảo Mã Lương vẽ một núi vàng.

Mã Lương không nói gì. Cậu cầm bút vẽ lên tường mặt biển màu xanh, rộng mênh mông, viên quan liền quát:

-Sao mày lại vẽ biển, hãy vẽ núi vàng ngay!

Cậu chấm mấy nét, giữa biển nhô lên một núi vàng lấp lánh. Viên quan sung sướng nhẩy lên:

- Vẽ ngay một chiếc thuyền, để ta ra đó lấy vàng.

Mã Lương vẽ ngay một chiếc thuyền rồng lớn. Viên quan dẫn binh lính và cả tên thợ vẽ lên thuyền. Hắn ra lệnh: - “Chèo thuyền ngay, nhanh lên!”. Mã Lương vẩy mấy nét, gió thổi căng buồm, thuyền lướt đi băng băng. Thấy đảo vàng còn ở xa, viên quan sốt ruột hét to: - “Vẽ gió to lên chút nữa! To lên chút nữa!...”

Mã Lương vẽ liền mấy nét. Gió thổi lên điên cuồng, sóng dữ chồm lên khiến thuyền chao đảo dữ dội.

Viên quan hốt hoảng kêu la: - “Gió đủ rồi! Gió đủ rồi!” nhưng Mã Lương vẫn tiếp tục vẽ thêm gió.

Gió to, sóng dữ cuồn cuộn nhấn chìm chiếc thuyền và viên quan tham lam.

Mã Lương lại quay về với những người lao động nghèo khổ. Cậu cùng họ kiếm củi, cắt cỏ, trồng cấy và vẽ. Cậu lại được sống những ngày vui vẻ, hạnh phúc, vì được vẽ để giúp đỡ mọi người.


(Bích Hằng tuyển chọn)

Nguồn:Nhà Xuất Bản Văn Hóa Thông Tin
Người Type: Tiếng Mưa Đêm
Về Đầu Trang Go down
Ntd Hoa Viên

Ntd Hoa Viên



TRUYỆN CỔ TÍCH VIỆT NAM Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: TRUYỆN CỔ TÍCH VIỆT NAM   TRUYỆN CỔ TÍCH VIỆT NAM EmptyWed Dec 19 2012, 11:16

THẠCH SANH - LÝ THÔNG


Ở quận Cao Bình có một ngọn núi cao. Dưới chân núi có một cây đa cổ thụ. Bên gốc đa có một túp lều, sống ở đấy có một chàng trai làm nghề đốn củi tên là Thạch Sanh. Sớm sớm Thạch Sanh xách rìu vào rừng đốn củi, chiều mang vào bản hay xuống chợ bán lấy tiền nuôi mẹ. Cha anh mất sớm. Gần đây Thạch Bà cũng qua đời. Thạch Sanh vẫn sống một mình trong căn lều rách nát ấy.

Một hôm, có anh hàng rượu tên là Lý Thông đi ngang qua đó ghé lại nghĩ chân. Thấy Thạch Sanh khoẻ mạnh, lại mồ côi, hắn bảo: “Em ở đây có một mình, lúc khoẻ đã vậy, khi ốm đau thì sao? Anh cũng mồ côi cha, giờ chỉ có một mẹ già. Hay là em về ở với anh. Anh nhận em làm em nuôi, sướng khổ có nhau, vui buồn có nhau.”

Thạch Sanh nghe lời xách rìu theo Lý Thông về nhà. Nghe Lý Thông thưa chuyện, bà mẹ bảo: “ Anh con đi buôn bán có khi mấy ngày mới về. Con ở đây có mẹ, có con, con cứ coi đây là nhà của con.”

Thạch Sanh cảm động lắm. Từ đấy anh ra sức làm lụng nuôi mẹ và người anh kết nghĩa. Một hôm đi lấy củi về, Thạch Sanh đã thấy Lý Thông ở nhà. Bà mẹ dọn một mâm cơm thịnh soạn, cơm rượu xong, bà mẹ bảo: “ Hôm nay có việc quan trọng, triều đình cắt anh con đến lượt đi canh miếu thờ. Ngặt vì trót cất một mẻ rượu, sợ hỏng việc của người ta, nên anh cpn phải mang đến cho họ. Con chịu khó đi thay anh con một đêm.

Thạch Sanh thuận đi ngay. Đợi Thạch Sanh đi rồi, Lý Thông nói với mẹ: “Con mang rượu cho các quan họ nói: “Thằng em đi thay thằng anh cũng được, miễn là có người nộp mạng cho mãng xà!”

Bà mẹ khen: “Con trai mẹ giỏi lắm!”

Lại nói chuyện Thạch Sanh, anh ra đi mà không nghi ngời gì cả, vì anh đâu có biết mình đi nộp mạng cho mãng xà. Vả lại, có biết thì anh cũng chẳng sợ. Chiếc rìu của anh là chiếc rìu thần, hồi còn sống ở gốc đa, anh đã được các vị thần truyền cho nhiều phép thần thông có thể diệt được yêu quái.

Nửa đêm, đang ngồi trong miếu, Thạch Sanh bỗng thấy gió thổi rung cây, không khí lạnh buốt, con mãng xà tinh hiện ra, dương vuốt, nhe nanh, hà hơi, phun lửa sấn đến định ăn thịt anh. Thạc Sanh bình tĩnh đánh nhau với nó hồi lâu thì yêu quái bị giết chết, hoá ra là một con trăn lớn.

Thạch Sanh chặt lấy đầu con trăn mang về nhà. Đến nhà thì hết canh ba. Thạch Sanh gọi cửa, ở trong nhà mẹ con Lý Thông ngỡ là hồn anh về báo oan cứ lạy lục xin tha tội.

Mãi sau biết chắc là Thạch Sanh còn sống. Lý Thông mới ra mở cửa. Thạch Sanh kể lại chuyện mình giết mãng xà cho mẹ con Lý Thông nghe.

Thấy đầu con trăn tinh vứt dưới đất, Lý Thông nảy ra một âm mưu thâm độc. Hắn nói: “Con trăn này là của nhà vua nuôi, bây giờ em giết nó sẽ bị tội chết!” Rồi hắn khuyên Thạch Sanh trốn đi, để hắn ở nhà kiếm cách thu xếp. Thạch Sanh trở về chốn cũ ở gốc đa. Còn Lý Thông thì xách đầu con trăn trẩy kinh, tâu vua. Hắn được vua phong chức quan to trong triều vì có công diệt yêu quái, cứu dân lành.

Bấy giờ công chúa con vua muốn kén phò mã, bảng yết khắp dân gian, điệp gởi cùng các nước, nhưng không chọn được ai vừa ý. Một hôm công chúa đi dạo vười hoa, bỗng một con đại bàng xà xuống cắp đi mất. Tình cờ đại bàng bay ngang cây đa nơi Thạch Sanh đang ngồi nghỉ. Thạch Sanh thấy vậy, liền giương cung bắn một phát trúng ngay vào cánh. Nhưng đại bàng rút tên ra rồi tiếp tục cắp người bay đi, Thạch Sanh lần theo vết máu đỏ, thấy đại bàng chui vào một cái hàng rất kiên cố. Chàng đánh dấu lối vào hang và trở về.

Khi nghe tin công chúa bị yêu quái cắp đi mất tích, nhà vua truyền cho Lý Thông đi tìm, hứa tìm được sẽ gả công chúa cho. Lý Thông vừa mừng vừa lo, bèn mở hội hát xướng trong mười ngày, sức cho nhân dân đến xem mục đích để dò hỏi nghe ngóng tinh tức. Tám chín ngày đã qua, mà không nghe ai nói một lừi gì về chuyện đại bàng bắt người cả. Lý Thông nghĩ đến Thạch Sanh, liền cho người đến gọi chàng về. Gặp Thạch Sanh, Lý Thông tỏ mối lo không tìm được công chúa. Thạch Sanh thật thà kẻ lại việc bắn trúng cánh chim. Lý Thông mừng lắm, lập tức nhờ Thạch Sanh dẫ đường, mang quân lính đến của đại bàng. Thạch Sanh tình nguyện xuống hang tìm công chúa. Quả nhiên gặp công chúa ở đó. Nhân lúc đại bàng còn đang ngủ, Thạch Sanh buộc công chúa vào dây, ra hiệu cho Lý Thông ở ngoài hang kéo lên. Xong chàng sửa soạn lên theo, giữa lúc đó thì đại bàng tỉnh lại. Thấy mất công chúa, nó nổi giận gầm lên, giơ móng vuốt, tung cánh úp lấy Thạch Sanh; vách đá ầm ầm rung chuyển. Nhưng Thạch Sanh hoá phép đánh nhau với nó, cuối cùng đại bàng bị giết chết, Thạch Sanh mò tìm lối ra thì thấy cửa hang đã bị lấp. Chàng quay lại đến một ngách thì thấy có một cũi sắt trong giam một người con trai. Thì ra đó là thái tử con của vua Thủy Tề, bị đại bàng giam đã ngót một năm. Thạch Sanh lấy rìu bổ tan cũi sắt, cứu thái tử ra. Ở hang sâu có một con đường thông ra biển, Thái tử mời Thạch Sanh về thủy cung để vua cha được đền ơn. Vua Thủy Tề mừng lắm, tặng Thạch Sanh vô số vàng bạc châu báu, nhưng chàng đều từ chối không nhận, chỉ lấy một cây đàn. Xong rồi từ giã vua và thái tử, lên trần gian, về chốn cũ ở gốc đa.

Nói về công chúa, từ khi lên khỏi hang, chờ Thạch Sanh lên. Thấy Lý Thông đã lấp mất cửa hang, uất ức lên mà hóa câm. Khi trở về cung, ai hỏi gì nàng cũng không nói. Vua buồn rầu sai Lý Thông lập đàn cầu nguyện, chờ khi công chúa khỏi bệnh sẽ cho làm lễ thành hôn, nhưng đàn lập đã một tháng mà công chúa vẫn không nói được.

Thạch Sanh giết xong đại bàng, bèn trở lại gốc cây đa tiếp tục sống bằng nghề đốn củi. Một hôm quân lính nhà vua ầm ầm kéo đến, Thạch Sanh còn chưa hiểu chuyện gì thì chúng đã vào lều lôi ra một túi bạc lớn. Anh bị bỏ ngục vì tội ăn cắp kho báu của nhà vua. Anh có biết đâu, đây là âm mưu nham hiểm của Lý Thông. Hắn rất sợ một ngày nào đó, công lao của anh bị hắn cướp sẽ bại lộ nên nhờ tay triều đình giết đi cho khỏi lo ngại về sau. Ngồi trong ngục, Thạch Sanh buồn tình lấy đàn ra gẩy, không ngờ cây đàn ấy lại là đàn thần. Gảy đến đâu đàn kể lể đến đó, nó kể rõ đầu đuôi câu chuyện, nó tố cáo tội ác của Lý Thông, nó oán trách sự hờ hững của công chúa “Tích tịch tình tang ai mang công chúa dưới hang trở về!”
. Công chúa ngồi trên lầu, nghe tiếng đàn bỗng reo mừng, cười nói, xin vua cha cho gọi người gảy đàn. Vua đòi Thạch Sanh đến, và trước cả đình thần bá quan văn võ, Thạch Sanh kể lại sự tình cho vua nghe, từ khi mồ côi cha mẹ, học phép tiên, kết nghĩa anh em với Lý Thông, khi chém trăn tinh, khi bắn đại bàng, cứu công chúa và bị lấp hang. Khi cứu con vua Thủy Tề, và không hiểu vì sao lại bị bắt bỏ ngục?!

Vua hiểu ra tất cả liền truyền lệnh hạ ngục mẹ con Lý Thông và giao cho Thạch Sanh được toàn quyền xử định. Thạch Sanh thương tình, cho hai mẹ con Lý Thông trở về làng, nhưng dọc đường hai mẹ con gặp trận mưa giông và cả hai đều bị sét đánh chết.

Thái tử mười tám nước chư hầu trước đã ôm hận vì công chúa ruồng rẫy, nay nghe tin nhà vua sẽ gả công chúa cho một gã tiều phu liền cất binh mã đến vây chặt Kinh đô. Vua sai Thạch Sanh ra dẹp giặc. Khi giáp trận, Thạch Sanh lại đem cây đàn của mình ra gảy. Tiếng đàn khi khoan khi nhặt, da diết lạ thường, khiến cho quân địch phải xúc động, người thì bồi hồi thương con, thượng vợ, kẻ thì bâng khuâng nhớ tới quê hương, không một ai còn nghĩ tới đánh nhau nữa. Thái tử mười tám nước chư hầu thấy thế khiếp sợ vội vàng xin bãi binh giảng hoà. Thạch Sanh dọn một niêu cơm nhỏ thết đãi quân lính 18 nước chúng ăn, nhưng chúng ăn mãi không hết. Chúng càng phục Thạch Sanh, rập đầu lạy tạ kéo nhau về nước. Vua liền sai tổ chức lễ cưới linh đình cho công chúa với Thạch Sanh.


(Bích Hằng tuyển chọn)

Nguồn: Nhà Xuât Bản Văn Hóa Thông Tin
Về Đầu Trang Go down
Ntd Hoa Viên

Ntd Hoa Viên



TRUYỆN CỔ TÍCH VIỆT NAM Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: TRUYỆN CỔ TÍCH VIỆT NAM   TRUYỆN CỔ TÍCH VIỆT NAM EmptyWed Dec 19 2012, 11:18

THÁNH GIÓNG


Hôm ấy, ngôi làng nhỏ ở ven sông xôn xao vì tiếng vó ngựa, tiếng rầm rập của quân lính nhà vua, tiếng loa thép gọi dân làng ra đình nghe chiếu chỉ.

Chỉ một thoáng, sân đình đã chật ních người. Vị sứ giả của Vua giơ chiếc loa đồng, dõng dạc truyền lệnh:

- Hiện nay giặc Ân ở phương Bắc đã tràn qua cửa ải đang tiến đánh nước ta. Giặc cậy có quân đông, tướng giỏi, đi đến đâu cũng tàn sát dân lành. Nay nhà Vua truyền, ai có đồng, có sắt đem nộp làm vũ khí sẽ được khen thưởng, ai có tài, có trí ra giúp nước dẹp giặc cứu dân sẽ được trọng dụng…

Bà con đua nhau về mang đồ đồng, đồ sắt nộp Vua, nhưng ở cái làng nghèo này lấy đâu ra người tài trí để giúp Vua giết giặc?

Trong ngôi nhà nhỏ ở cuối làng, có cậu bé tên là Gióng, lên ba tuổi chưa biết đi mà cũng chẳng biết nói. Cậu được sinh ra cũng chẳng giống ai. Bà mẹ một hôm vô tình đẫm phải chân của Thần ở đầu mương, về mang thai và Gióng ra đời.

Nghe sứ giả thét loa, cậu đứng dậy nói với mẹ: “ Mẹ hãy ra gọi sứ giả vào đây cho con gặp!”

Nghe Gióng nói, bà mẹ vừa vui mừng vừa lo sợ, Gióng lại giục mẹ: “Mẹ ra ngay đi kẻo sứ giả sang làng khác bây giờ!”

Bà mẹ vội chạy ra đình, thưa lại với sứ giả lời thỉnh cầu của con bà.

Sứ giả nghe chuyện lạ, ông mừng thầm “có thể đây là điềm trời phù hộ nước Nam mình!” Ông vội đến gặp Gióng và nói: “Tôi là sứ giả của nhà Vua đi tìm người tài ra giúp nước. Chẳng hay chú bé muốn gặp định nói chuyện gì?”

Gióng nói với sứ giả, giọng sang sảng, không hề giống một đứa bé lên ba tuổi:

- Nhờ sứ giả về tâu với Vua rèn cho ta một con ngưa sắt, một cái roi sắt, một bộ giáp sắt và một nón sắt, ta sẽ đánh đuổi quân giặc.

Mọi người có mặt đều vô cùng ngạc nhiên. Cho là thần nhân xuất hiện, sứ giả lập tức phi ngựa về tâu Vua. Nghe nói, Hùng Vương mừng rỡ liền ra lệnh cho thợ rèn góp tất cả sắt lại rèn ngựa, gươm, áo giáp và nón như lời yêu cầu của chú bé. Vua lại sai một đạo quân lớn, đóng xe kéo, đưa mọi thứ đến nhà Gióng.

Khi được tin quân sĩ khiêng ngựa sắt sắp đến làng, mẹ Gióng vội về báo với con.

- con ơi, quân giặc sắp đến gần, Vua đã chuẩn bị áo giáp, roi sắt, nón sắt và ngựa sắt cho con rồi. Giặc thì đông mà con thì có một mình, con định đánh giặc như thế nào?

Gióng nói với mẹ:

- Việc đánh giặc thì mẹ đùng lo. Nhưng trước khi đánh giặc, con muốn được ăn một bữa thật no.

Mẹ Gióng vội thổi cơm cho con ăn, nhưng nấu lên được nồi nào thì Gióng ăn hết ngay nồi ấy. Mỗi lần ăn xong một nồi cơm thì Gióng lại lớn lên thêm một ít vẫn bảo mẹ nấu tiếp. Nhà hết gạo, người mẹ chạy sang hàng xóm, bảo mọi người góp gạo cùng nấu cơm mới kịp cho Gióng ăn. Mọi người nô nức đem gạo khoai, trâu rượu, hoa quả, bánh trái đến đầy một sân. Nhưng chỉ một loáng, Gióng ăn hết tất cả mọi thứ. Ăn xong, Gióng đứng dậy vươn vai một cái, bỗng biến thành một chàng trai khôi ngô tuấn tú.

Sau đó, Gióng lại bảo tiếp:

- Mẹ kiếm vải may áo cho con, quần áo con rách hết cả rồi.

Mọi người lại về nhà, đua nhau mang vải đến may quần áo cho Gióng mặt, Nhưng thân thể Gióng lớn vượt lên một cách kỳ lạ, áo quần vừa may xong đã thấy chật, thấy ngắn, lại phải mang vải tới để chắp nối thêm. Ai nấy chưa hết kinh ngạc thì vừa lúc quân sĩ đã mang được ngựa, gươm, áo giáp và nón sắt tới. Gióng bước ra khỏi nhà, vươn vai một cái, người bỗng cao to sừng sững, chân dài hơn mười trượng, hét lên một tiếng như sấm:

- Ta là tướng nhà Trời, xuống giúp nước Nam đánh giặc đây!

Thế rồi Gióng mặt áo giáp sắt, đội nón sắt, tay cầm gươm múa quanh mấy vòng. Đoạn từ biệt mẹ và dân làng, Gióng nhảy lên ngựa, nhằm hướng có quân giặc mà thúc ngựa. Ngựa sắt bỗng chồm lên hí vang một tiếng, miệng phun ra lửa, phi như bay, sải từng bước dài qua hàng chục cánh đồng, rung chuyển cả trời đất. Chỉ trong chớp mắt, ngựa đã xông đến đồn trại giặc bấy giờ đang đóng la liệt cả mấy khu rừng gần Kinh thành. Lưỡi gươm của Gióng vung lên loang loáng như chớp giật. Quân giặc tiến ra chừng nào chết chừng ấy. Ngựa sắt thét ra lửa thiêu cháy từng dãy đồn trại, lửa thiêu luôn cả mấy khu rừng. Khói mịt mù, tiếng giặc la thét kêu khóc như ri.

Nhưng tướng giặc là Ân Vương vẫn cố gào thét hô quân xông lên. Gióng càng đánh càng khỏe, thây giặc nằm ngổn ngang đầy rừng. Bỗng roi sắt gẫy, Gióng thuận tay nhổ lấy bụi tre hai bên đường quật tới tấp vào quân giặc đang cố gắng trụ lại theo lệnh chủ tướng.

Chẳng mấy chốc quân giặc đã bị đánh tan tác. Ân Vương bị quật chết không kịp chạy. Bọn giặc sống sót lạy lục xin hàng. Quân lính triều đình cũng như dân các làng chỉ còn việc xông ra trói nghiến chúng lại. Không đầy một buổi, Gióng đã trừ xong giặc cho nước nhà.

Lúc bấy giờ ngựa Gióng đã tiến đến chân núi Sóc Sơn. Đến đây, Gióng bèn cởi giáp bỏ nón lại, rồi cả người lẫn ngựa phi thẳng lên trời.

Sau khi thắng trận, để nhớ ơn người anh hùng, Vua Hùng sai lập đền thờ Gióng ở làng quê, phong làm Phù Đổng thiên vương.

Ngày nay chúng ta còn thấy dấu vết những dãy ao tròn nối nhau kéo dài suốt từ Kim Anh, Đa Phúc cho đến Sóc Sơn, người ta bảo đó là những vết chân ngựa của Thánh Gióng. Khu rừng bị ngựa sắt phun lửa thiêu cháy nay còn mang tên là làng Cháy. Những cây tre mà Gióng nhổ quật vào giặc bị lửa đốt ngả thành màu vàng và có những vết cháy lốm đốm, ngày nay giống tre ấy vẫn còn, người ta gọi là tre là ngà (hay đằng ngà).


(Bích Hằng tuyển chọn)

Nguồn: Nhà Xuất Bản Văn Hóa Thông Tin
Về Đầu Trang Go down
Ntd Hoa Viên

Ntd Hoa Viên



TRUYỆN CỔ TÍCH VIỆT NAM Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: TRUYỆN CỔ TÍCH VIỆT NAM   TRUYỆN CỔ TÍCH VIỆT NAM EmptyFri Dec 21 2012, 07:35

TỪ THỨC GẶP TIÊN


Từ Thức là một viên tri huyện trẻ tuổi. Vùng chàng trị nhậm là một huyện nhỏ ở một tỉnh phía Bắc. Dân cư không đông đúc, giàu có, nhưng đây lại là nơi nổi tiếng vì có nhiều phong cảnh thiên nhiên đẹp, nhiều chùa chiền linh thiêng.

Từ Thức làm quan là do ý nguyện của cha mẹ, chứ chốn quan trường không hợp với sở thích của chàng.

Tuy vậy, sau gần một năm nhậm chức, chàng được mọi người ca ngợi là một vị quan thanh liêm, ngoài bổng lộc của triều đình, công quỹ chàng không tơ hào một cắc, của đút lót chàng không nhận của ai dù một đồng. Chàng thường che đỡ cho những người dân nghèo gặp cảnh mất nùa đói kém được hoãn nộp sưu thuế.

Chính vì vậy, chàng đã bị thượng quan quở trách vì lơ là công việc!

Vốn là chàng trai tính tình phóng khoáng chỉ ưa thích được ngao du trong thiên hạ, được đến với những cảnh đẹp đất nước ở mọi miền, được ngâm vịnh thơ ca với những người bạn ở nơi suối trong, núi vắng. Chàng đã xin treo ấn từ quan.

Cha chàng vốn là vị quan thanh liêm, nhưng nặng nợ quan trường, suốt cuộc đời cho đến lúc được về vui thú điền viên, ông vẫn chỉ là một viên tri phủ nghèo.

Chàng về thăm cha, bày tỏ chủ ý của mình: “Làm quan mà thương dân thì chẳng được lòng quan trên. Muốn làm đẹp lòng quan trên, thì lại phải ra tay bóp nặn dân chúng! Đằng nào cũng không hợp với sở nguyện của con”

Dời khỏi chốn quan trường, Từ Thức tha hồ “lưng túi gió trăng” đi đến những nơi danh thắng, chiêm ngưỡng cảnh đẹp của non sông. Huyện chàng trị nhậm có một chùa nổi tiếng. Cứ vào mùa xuân, thiện nam tín nữ từ khắp nơi về chảy hội đông vui. Trong sân, ngoài cổng chùa, nở rộ một màu đỏ thắm của hoa mẫu đơn.

Du khách thưởng thức hoa đẹp tượng trưng cho vẻ tinh khiết, thanh bạch của cảnh chùa.

Chàng Từ Thức cũng không bỏ lỡ cơ hội đến dự hột thưởng hoa.

Từ Thức mải mê ngắm nhìn cảnh đẹp của ngôi chùa cổ kính, đắm mình trong hương hoa mẫu đơn đến quên cả việc ăn uống. Chàng tiếc rằng, mình làm quan ở đây đã gần một năm mà bây giờ mới được đặt chân tới đây. Mãi đến tận chiều tối, khi hội hoa đã vãn bớt người, Từ Thức mới ngồi xuống dưới một gốc cây cổ thụ trong chùa để nghỉ ngơi và mở gói cơm nắm mà chàng mang theo ra ăn.

Chợt nghe thấy tiếng ồn ào phía trước, Từ Thức lại gần xem có chuyện gì. Thì ra đó là một nhóm “người nhà chùa” đang định bắt giữ một cô gái trẻ, do cô ta đã vô tình ngắt một cành hoa mẫu đơn trong chùa.

Họ tự đặt ra luật lệ: Ai bẻ một cành hoa thì sẽ phải nộp phạt một quan tiền.

Nếu ai không chịu nộp, thì sẽ bị giữ lại trong chùa để quét dọn, xách nước nấu cơm trong ba ngày.

Người con gái kia, từ nơi khác đến không biết luật lệ này. Cô gái bị đám “người nhà chùa” bắt giữ và đòi phải nộp một quan tiền thì chúng mới cho về. Cô gái không mang theo tiền ở trong người, nhưng cũng không chịu vào bếp nấu nướng, phục vụ họ.

Thấy vẻ mặt hoảng hốt của cô gái khi cô vùng ra khỏi những bàn tay đang túm chặt lấy cô, chàng toan đến can thiệp, nhưng rồi nghĩ: “Giờ đây mình cũng chỉ là một người đi vãn cảnh chùa!”, Từ Thức lấy một quan tiền ra trả cho đám “người nhà chùa” để cô gái được ra về.

Cô gái e lệ cảm tạ Từ Thức đã cứu giúp mình. Thấy cô gái hiền lành, đoan trang lại xinh đẹp, Từ Thức cũng muốn bắt chuyện làm quen.

Sau một hồi trò chuyện, cả hai đều tâm đầu ý hợp. Từ Thức rất vui sướng khi biết được rằng cô gái này cũng là người ở huyện Tống Sơn ngay cạnh quê chàng. Trước khi chia tay, cô gái ân cần mời Từ Thức khi nào có dịp về quê, thì ghé thăm nhà cô. Từ Thức vui vẻ nhận lời.

Từ đấy, chẳng còn cảnh đẹp nào lôi cuốn được chàng trai vốn lắm mộng mơ. Từ Thức đi khắp huyện Tống Sơn dò hỏi tung tích, nơi ở của cô gái. Nhưng kỳ lạ thay, không một ai biết gì về người con gái đó. Một buổi sáng Từ Thức dừng chân trước một hang động. Chàng vô cùng ngạc nhiên trước cảnh đẹp của nơi này. Khung cảnh chẳng khác nào chốn bồng lai. Cửa hang tương đối rộng, nhưng nhìn xuống hang thì chẳng thấy gì ngoài một màu đen sẫm. Vì tò mò và sẵn tính phiêu du, Từ Thức đã bước vào trong hang.

Càng đi, đường trong hang càng tối và hẹp lại. Chàng phải dò dẫm từng bước một, đi được gần nửa ngày trong hang động đó mà vẫn không thấy gì. Từ Thức hơi nản lòng định quay trở ra thì thấy phía trước có ánh sáng mờ mờ. Hoá ra, phía trên vòm hang, có một lỗ hổng mà người có thể chui lọt. Không ngần ngại, Từ Thức dò dẫm từng bước, leo lên được đến lỗ hổng, rồi lách mình chui qua. Trước mắt Từ Thức hiện ra một thung lũng đầy hoa thơm, cỏ lạ. Phía xa xa, có một cung điện nguy nga, rộng lớn. Chàng hướng về phía cung điện đó mà rảo bước. Từ Thức thấy hai bên lối vào cung điện có rất nhiều loài hoa quý. Mùi hương của chúng toả ra thơm ngát khiến chàng cảm thấy ngây ngất, quên hết cả mệt nhọc. Không gian tràn đầy những tiếng chim hót líu lo. Từ Thức say sưa ngắm nhìn cảnh vật mà chân bước đến cửa cung điện lúc nào chàng cũng không hay.

Bỗng nhiên, từ cung điện có hai cô gái xinh dẹp tiến lại gần chỗ Từ Thức, cúi đầu chào rồi mời chàng vào. Vừa đi, hai nàng vừa vui vẻ nói với Từ Thức:

-Chàng để mọi người đợi lâu quá đấy. Sao bây giờ chàng mới tới đây?!

Tưởng mình nghe nhầm, Từ Thức ngỡ ngàng chưa kịp nói gì thì đã được hai cô gái dẫn tới tiền sảnh. Trong nhà bày biện đủ thứ đồ dùng, trang trí sang trọng, đẹp mắt. Trần nhà có treo những chùm đèn bằng ngọc, sáng lấp lánh khiến cho cảnh vật nơi đây thêm phần huyền ảo. Đang nhìn ngắm xung quanh, chợt Từ Thức trông thấy một phu nhân với khuôn mặt hiền từ phúc hậu tiến về phía chàng. Bà tươi cười nói với Từ Thức:

- Rất vui mừng được đón tiếp chàng tại chốn này. Từ trước tới nay, chưa có một ai tới được đây. Chàng đã tới đây rồi thì xin lưu lại ít hôm, để thưởng ngoạn cảnh đẹp. Mời chàng ngồi xuống đây để cùng ta hàn huyên đôi chuyện.

Từ Thức cảm ơn vị chủ nhân đã ân cần tiếp đãi chàng. Từ Thức vừa ngồi xuống ghế đối diện, thì bà lại lên tiếng:

- Mặc dù khung cảnh nơi đây khác xa so với nơi chàng đang ở, nhưng chàng hãy coi đây như là ngôi nhà của chính mình. Ở cung điện này, chàng là một vị khách rất được trọng vọng. Ta mong rằng chàng sẽ không bao giờ dời khỏi chốn này. Ta nay đã có tuổi, lại chỉ có mỗi một đứa con gái đã đến tuổi lấy chồng. Nếu chàng ưng thuận, ta sẽ gả con gái ta cho chàng.

Nói rồi người đàn bà cho người gọi con gái ra. Tấm rèm cửa được vén lên, một thiếu nữ xinh đẹp bước đi uyển chuyển tiến lại gần chỗ mẹ. Nàng cất tiếng chào khách rồi thẹn thùng cúi mặt. Phải mất một lúc sau, Từ Thức mới chợt nhận ra, nàng chính là thiếu nữ chàng đã gặp trong hội hoa Mẫu Đơn. Từ Thức rất dỗi vui mừng.

- Thật là may mắn, cuối cùng tôi cũng tìm được nhà nàng, không ngờ nàng lại ở tận chốn xa xôi ít người qua lại này.

Giáng Hương – tên người con gái đó – đáp lời chàng:

- Ngày trước, thiếp đi xem hội, không may gặp rủi ro, nhờ có chàng giúp đõ thiếp mới thoát nạn. Chuyện xảy ra thiếp vẫn luôn ghi nhớ trong lòng mà chưa có dịp để đền ơn chàng. Nay chàng đã tới được đây, âu cũng là chúng ta có duyên với nhau. Nếu chàng không chê nơi này xấu xí, thiếp xin mời chàng ở lại đây cùng thiếp. Ban ngày chúng ta sẽ cùng nhau đi ngắm cảnh, tối đến thì ngâm thơ thưởng nguyệt, sống một cuộc sống vui vẻ mà không cần phải lo nghĩ tới chuyện gì.

Đúng là nguyện được, ước thấy, Từ Thức vui vẻ chấp nhận lời mời ở lại nhà nàng.

Thời gian sau đó, đôi trẻ thường quấn quýt bên nhau. Nhìn hai người sánh bước, ai ai cũng cho rằng đó là một cặp trời sinh ra để họ luôn ở bên nhau. Một hôm, mẹ Giáng Hương tìm gặp Từ Thức để nhắc tới chuyện hôn lễ giữa chàng và con gái bà. Giáng Hương thẹn thùng bỏ vào buồng, còn Từ Thức thì cúi đàu cảm tạ nữ chủ nhân đã thành tâm tác hợp cho chàng và Giáng Hương. Vài ngày sau, một bữa tiệc linh đình được tổ chức ngay tại cung điện. Từ Thức và Giáng Hương trở thành vợ chồng.

Cuộc sống đẹp như mơ của hai vợ chồng họ cứ thế trôi đi. Tuy nhiên, thỉnh thoảng Từ Thức vẫn nhớ tới cha mẹ và ngôi làng củ, cùng bạn bè, hàng xóm. Lúc đó, Từ Thức và Giáng Hương đã có một đứa con trai lên ba tuổi. Hàng ngày, nhìn con chơi đùa, Từ Thức càng không thể nguôi ngoai nỗi nhớ quê nhà. Chàng thực sự muốn về quê thăm mẹ cha nhưng chàng cũng không muốn xa vợ con.

Từ ấy, Từ Thức không vui vẻ, hay nói cười như trước nữa.

Giáng Hương vốn là một người phụ nữ thông minh nên nàng cũng đoán ra việc chồng mình nhớ nhà và muốn trở lại thăm quê cũ. Nàng vô cùng buồn bã và lo sợ. Một buổi hai vợ chồng ngồi uống trà, ngắm trăng, Giáng Hương nghe thấy chồng thở dài, nàng liền gạn hỏi. Cuối cùng, Từ Thức đành phải nói thật là chàng rất nhớ quê nhà và muốn được về thăm lại cha mẹ. Từ Thức nói là chàng sẽ rất vui nếu Giáng Hương và con đi cùng với chàng.

Giáng Hương lắng nghe chàng với vẻ cảm thông nhưng nàng vẫn khuyên can chồng:

- Thiếp biêt là chàng rất nhớ nhà và muốn về thăm cha mẹ chàng, nhưng chàng xa nhà đã lâu, liệu về đến nhà, cha mẹ chàng có còn ở đấy không. Hay là …

Từ Thức nghe Giáng Hương nói vậy thì vô cùng buồn bã, cho rằng nàng đã không hiểu nỗi lòng chàng. Từ Thức không nói gì nữa, chỉ buồn bã trở vào nhà. Giáng Hương nhìn thấy chồng như thế, trong lòng rất đau buồn nhưng nàng không biết làm cách nào để chàng biết được sự thật.

Một buổi tối trước khi đi ngủ, Từ Thức bảo Giáng Hương:

- Cha mẹ ta vốn chỉ có mỗi mình ta là con trai. Nay hai cụ đã già mà ta lại không ở nhà để phụng dưỡng cha mẹ, thì sẽ bị người đời chê cười là người bất hiếu. Sáng mai, ta nhất quyết sẽ lên đường trở về nhà, nàng có đi cùng ta không?

Giáng Hương buồn bã đáp:

- Thiếp biết là chàng sẽ nhất định trở về quê cũ. Nhưng thiếp là người cõi tiên không được phép dời khỏi chốn này. Nếu thiếp bất chấp tất cả để đi theo chàng, thì gia đình chúng ta sẽ gặp chuyện rủi ro. Sáng mai thiếp sẽ sai người chuẩn bị xe để đưa chàng trở lại cõi trần. Thiếp sẽ để chàng mang theo con trai của chúng ta. Chàng phải hứa với thiếp là dù có chuyện gì xảy ra, chàng cũng phải chăm lo chu đáo cho thằng bé!

Xong câu chuyện, hai người lên giường đi ngủ. Mỗi người một tấm trạng, Từ Thức thì vui mừng vì sắp được gặp lại cha mẹ, còn Giáng Hương thì khóc thầm suốt đêm hôm ấy.

Sáng hôm sau, nàng dậy sớm đến bên giường để ôm hôn đứa trẻ. Thằng bé cứ kêu khóc không ngừng. Từ Thức không đành lòng trước cảnh mẹ con ly biệt, chàng đành để con ở lại. Chàng cũng chỉ định về nhà vài hôm, rồi đón luôn cha mẹ lên đây ở cho cả gia đình chàng được đoàn tụ.

Từ Thức từ biệt vợ con và cõi tiên bước lên cỗ xe mây trở về nhà. Chỉ trong nháy mắt chàng đã nhìn thấy cảnh vật, sông hồ, núi non hùng vĩ của huyện Ái Châu. Xe để chàng ngay trước nhà của cha mẹ chàng ngày xưa.

Nhìn cảnh vật xung quanh, Từ Thức không khỏi ngạc nhiên. Chàng nhớ rằng mình mới chỉ xa quê có hơn ba năm, mà sao nhà cửa vườn tược lại thay đổi đến không còn nhận ra được nữa. Chàng thử đi một vòng quanh nhà, nhưng không gặp một người quen nào. Ngỡ rằng mình đã nhầm. Từ Thức ghé vào một quán nước bên dưới gốc đa. Khi đi, chàng nhớ nó mới chỉ là một cây đa nhỏ, giờ đã thành một cây cổ thụ xum xuê rễ, lá. Hỏi thăm, thì đây đúng là huyện Ái Châu quê chàng. Nhưng hỏi tin tức của cha mình thì ai cũng nói là chưa nghe bao giờ nghe tên vị quan huyện họ Trần cả. Lúc ấy có một cụ già râu tóc bạc phơ chống gậy ra quán. Nghe chuyện, cụ nói với Từ Thức: Ta năm nay đã gần chín mươi tuổi, từ nhỏ ta đã sống ở đây, khi mới lên năm tuổi lão có nghe cụ cố kể lại: Cách đây chừng gần bốn trăm năm, ở vùng này có một vị quan vô cùng liêm khiết tên là Trần Từ Văn. Vị quan đó chỉ có một người con tên là Từ Thức. Nhưng người con này trong một lần đi chu du thiên hạ đã không bao giờ trở lại làng nữa. Vị quan đã cho người tìm kiếm con trai ở khắp mọi nơi nhưng vẫn không thấy anh ta trở về. mấy năm sau thì cả vợ chồng quan huyện họ Trần qua đời. Chuyện đã lâu lắm rồi, phải chăng chàng là hậu duệ mấy chục đời của họ? Từ Thức dời khỏi quán nước mà trong lòng trĩu nặng buồn đau. Hoá ra một năm ở tiên giới bằng một trăm năm ở dước trần gian. Từ Thức đã ở đó gần bốn năm, vậy là chàng đã xa hạ giới tới gần bốn trăm năm. Giờ đây, cha mẹ đã không còn, họ hàng thân thích lại chẳng có ai. Từ Thức đành quay lại chỗ xe mây, nhưng xe mây đã biến mất từ lúc nào. Lúc này, chàng mới hiểu vì sao vợ chàng một mực khuyên chàng ở lại tiên giới mà không nên trở về nhà. Vừa ân hận đã không làm theo lời vợ khuyên, lại vừa nhớ vợ nhớ con, Từ Thức cứ nhằm hướng bờ biển mà đi, đi mãi.

Người ta nói rằng Từ Thức đã chết khi trở lại cửa động đã dẫn chàng đến cõi Tiên.

Cái hang bấy giờ đây đầy rong rêu, cây bụi phủ kín, không ai dám vào đó cả. Người ta gọi đó là động Từ Thức.


(Bích Hằng tuyển chọn)

Nguồn: Nhà Xuất Bản Văn Hóa Thông Tin
Người Type: Tiếng Mưa Đêm
Về Đầu Trang Go down
Ntd Hoa Viên

Ntd Hoa Viên



TRUYỆN CỔ TÍCH VIỆT NAM Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: TRUYỆN CỔ TÍCH VIỆT NAM   TRUYỆN CỔ TÍCH VIỆT NAM EmptyWed Dec 26 2012, 20:03

TÚ UYÊN – GIÁNG KIỀU


Năm Tú Uyên hai mươi tuổi, thì người cha nuôi lâm bệnh nặng rồi qua đời. Trước lúc lâm chung, cha anh dặn: “Cha đặt tên cho con là Tú Uyên có nghĩa là người hay chữ, con phải cố gắng dùi mài kinh sử để đỗ đạt ra làm quan thì cha mới có thể mỉm cười nơi chính suối!”

Tú Uyên rất đau khổ, anh nhớ tới người cha - một nhà nho độc thân, đã nhận anh - một đứa trẻ mồ côi làm con nuôi, đã dạy anh học văn chương, chữ nghĩa , thơ phú, hội hoạ. Chôn cất cha xong, anh quyết chí chuyên tâm học tập rồi lên kinh dự thi, để không phụ lòng mong mỏi của người cha.

Vào mùa xuân hằng năm, kinh thành thường có mở hội vui xuân trong đó hội Hữu Duyên rất lớn, nam nữ từ bốn phương đều kéo về đây tụ họp. Không chỉ về dự hội, các chàng trai, cô gái về đây còn có mong ước sẽ tìm được ý trung nhân cho mình. Tú Uyên cũng không bỏ lỡ cơ hội có thể chọn cho mình một người bạn đời đẹp người, tốt nết. Khoa thi chưa mở, chàng cùng các bạn khoá sinh nô nức đi trảy hội. Đến chiều, Tú Uyên thấy trong người khoan khoái, dễ chịu. Nhìn xuống chân, chàng bỗng thấy có một cuộn giáy được buộc bằng chỉ hồng cẩn thận. Tò mò, Tú Uyên nhặt cuộn giấy lên xem và thấy đó là một bài thơ đầy tình tứ. Tú Uyên rất ngạc nhiên không rõ bài thơ này là của ai mà lại rơi ở đay. Đúng lúc đó, từ trong chùa bước ra một nhóm thiếu nữ sinh đẹp trong đó có một cô gái mặc áo hồng xinh đẹp nhất trong cả nhóm. Tú Uyên vội vã bước ra để làm quen với cô gái và đưa cho nàng đọc bài thơ mà chàng vừa nhặt được, đọc xong cô gái chỉ cười và nói lảng sang chuyện khác.

Hai người vừa đi vừa nói chuyện rất vui vẻ. Khi đến vườn hoa, thấy có rất nhiều bông hoa đẹp, Tú Uyên bèn chạy vào ngắt hoa tặng cô gái. Nhưng khi quay ra thì cô gái đã biến đâu mất, Tú Uyên tìm mãi mà vẫn không thấy đâu, đến tối mịt chàng mới về tới nhà lòng buồn rười rượi.

Từ đó, Tú Uyên ngày đêm chỉ mơ tưởng đến người con gái mà chàng đã từng gặp ở hội Hữu Duyên, không thiết gì đến ăn uống, học hành. Thỉnh thoảng Tú Uyên lại tìm đến chùa Ngọc Hồ những mong được gặp lại người con gái đó, nhưng mãi vẫn bặt vô âm tính.

Một đêm, trong giấc ngủ Tú Uyên mơ thấy có một vị thần hiện ra và bảo với chàng sáng mai hãy đến cầu Đông, chàng sẽ được biết tin về người con gái đó. Hôm sau, Tú Uyên vội đi đến cầu Đông. Chàng đi mãi mới gặp một ông già bán tranh, ông già mời chàng mua một bức tranh Tố Nữ. Khi Tú Uyên mở ra thì thấy hình dạng người Tố Nữ trong tranh giống hệt người con gái mà mình đang ngóng đợi. Chàng liền mua bức tranh đó đem về nhà treo ở cạnh giường ngủ. Ngày ngày, Tú Uyên mải mê ngắm người Tố Nữ trong tranh, đến bữa ăn chàng dọn ra hai đôi đũa, hai cái bát và mời người Tố Nữ cùng ăn với mình.

Một hôm, khi Tú Uyên đi học về, chàng vô cùng ngạc nhiên thấy trên bàn mình đã dọn sẵn một mâm cơm tươm tất những thức ăn ngon và nóng tổi. Tuy trong lòng rất lấy làm lạ nhưng Tú Uyên vẫn ngồi vào mâm và ăn ngon lành. Chàng cũng không quên mời người con gái trong tranh cùng ăn. Tú Uyên thích thú khi chàng nhìn vào bức tranh và thấy hai má người Tố Nữ đỏ bừng như có ý ngượng ngùng .Bữa cơm đó chàng thấy rất ngon miệng và vui vẻ. Nhưng thật lạ, mấy hôm liền, đi học về, Tú Uyên đều thấy có một mâm cơm đã được dọn sẵn y như hôm trước. Sinh nghi, một hôm Tú Uyên đóng cửa đi học, nhưng đi được nữa đường chàng bèn quay về nấp ở sau nhà. Đến gần trưa chàng bỗng thấy người Tố Nữ từ trong tranh bước ra. Đầu tiên người đó dọn dẹp nhà cửa rồi xuống bếp làm cơm. Quá ddỗi vui mừng, Tú Uyên vội đẩy cửa vào xé vội bức tranh trên tường, rồi quay lại nắm chặt lấy tay người Tố Nữ mà bảo:

- Nàng đi đâu bấy lâu nay làm ta mong đợi mãi? Bây giờ ta sẽ không cho nàng đi đâu nữa, hãy ở lại đay cùng ta nhé!

Người con gái mặt đỏ bừng e thẹn đáp:

- Sao chàng lại vội xé bức tranh đi! Thiếp vào đây rồi thì là người nhà chàng, mong chàng hãy coi thiếp như một người thân.

Giây phút xúc động qua đi, nàng cho biết tên mình là Giáng Kiều, vốn kiếp trước có duyên nợ với chàng nên được phái xuống trần gian làm bạn cùng chàng. Tú Uyên mừng vui tưởng chừng như không có gì sung sướng hơn nữa. Chàng thề sẽ cùng Giáng Kiều chung sống suốt đời và giục nàng thành thân. Giáng Kiều xin phép được mời các bạn của mình đến chứng kiến cho lễ cưới của hai người. Giáng Kiều liền hoá phép cho ngôi nhà của vợ chồng họ thành một cung điện lộng lẫy, kẻ hầu người hạ ra vào tấp nập. Chỉ một loáng cỗ bàn đã được bày với bao nhiêu là món ăn ngon, các bạn của nàng lần lượt đến chúc tụng, ăn uống, chuyện trò vui vẻ đến hai ngày mới tan tiệc.

Từ ngày có được vợ đẹp, Tú Uyên quên hẳn việc học hành, thi cử, quên cả lời dặn của cha nuôi trước lúc lâm chung, cả ngày chàng chỉ ở nhà ngắm nhìn vợ, uống rượu và ăn những đồ ăn ngon được kẻ hầu người hạ bưng lên. Thấy chồng như vậy, đã có lần Giáng Kiều nhắc khéo:

- Chàng tên là Tú Uyên , cái tên thật đẹp. Ai đã đặt tên cho chàng?

- Cha nuôi ta. Cái tên ấy có nghĩa là “Người hay chữ”.

- Vậy mà thiếp e cái tên thì còn, nhưng ý nghĩa sẽ không còn nữa!

Nghe cô vợ nói Tú Uyên chỉ lặng thinh. Rồi hai người sinh được bé trai kháu khỉnh, nhưng Giáng Kiều khuyên can mãi cũng không thể làm Tú Uyên bỏ được tật uống rượu. Giận chồng, Giáng Kiều chỉ biết than khóc. Thấy vậy Tú Uyên đành hứa với vợ rằng chàng sẽ chăm học và không uống rượu. Nhưng chỉ được vài bữa, chàng lại vẫn chứng nào tật nấy. Giáng Kiều thất vọng lắm. Nàng nghĩ: Có lẽ vì có mình mà Tú Uyên đâm ra mải chơi, biếng học!

Một hôm đợi cho Tú Uyên uống rượu say ngủ thiếp đi, Giáng Kiều vội ôm con bay thẳng về trời. Tỉnh rượu, Tú Uyên gọi mãi không thấy vợ con đâu cả. Biết mình đã làm những điều không phải với vợ, nên vợ giận mà bỏ về trời. Quá thương nhớ vợ conTú Uyên bỏ cả ăn uống, ngày đêm chỉ kêu khóc thảm thiết, van xin trời phật động lòng trắc ẩn mà cho phép vợ con được trở về đoàn tụ với mình. Từ trên trời cao, Giáng Kiều thấy vậy không đành lòng, nàng xin với Ngọc Hoàng cho phép mình được trở lại trần gian để chung sống với Tú Uyên, chăm sóc chàng, giúp đỡ chàng trở lại nơi cử khổng sân trình. Đúng lúc Tú Uyên quá buồn chán đã có ý định quyên sinh cho quên hết mọi đau khổ, thì bỗng có một cơn gió thoảng qua. Chàng rùng mình nhắm mắt lại.

Khi mở mắt ra chàng vô cùng mừng rỡ khi thấy vợ con chàng đang đứng trước mặt. Tú Uyên chạy lại ôm lấy vợ con và hứa từ nay sẽ không bao giờ uống rượu nữa. Chàng cũng hứa rằng sẽ chú tâm vào chuyện học hành.

Kỳ thi năm ấy Tú Uyên đỗ trạng nguyên, mũ áo vinh quy về làng. Hai vợ chồng chung sống rất hoà thuận, hạnh phúc và cùng nuôi dạy đứa con trai nên người. Vào một đêm khuya, trời vằng vặc gió mát trăng thanh, có hai con hạc trắng từ trời bay xuống đón hai vợ chồng Tú Uyên. Tú Uyên chỉ kịp ghi lại cho con vài chữ dặn con học hành chăm chỉ, đỗ đạt thành tài. Chàng cũng khuyên con hãy sống sao cho đạo đức, hòa thuận, tránh xa mọi thói hư tật xấu. Sau đó hai vợ chồng lên lưng hạc bay thẳng về trời. Ngày ngày, hai vợ chồng cũng thường ngóng xuống trần gian, dõi theo cuộc sống sinh hoạt của con trai mình. Khi thấy con làm sai việc gì họ lại hiện về trong mơ, báo mộng cho con biết và khuyên răn con gắng sức học hành sống cho lương thiện, để mai này trở thành người có ít cho nước nhà.


(Bích Hằng tuyển chọn)

Nguồn: Nhà Xuất Bản Văn Hóa Thông Tin
Người Type:Tiếng Mưa Đêm
Về Đầu Trang Go down
Ntd Hoa Viên

Ntd Hoa Viên



TRUYỆN CỔ TÍCH VIỆT NAM Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: TRUYỆN CỔ TÍCH VIỆT NAM   TRUYỆN CỔ TÍCH VIỆT NAM EmptyWed Dec 26 2012, 20:05

SỰ TÍCH TRẦU CAU


Vợ chồng nhà quan lang họ Cao sinh hạ được hai người con trai giống nhau như đúc. Người ngoài nhìn vào đều không phân biệt được đâu là anh, đâu là em. Người anh là Cao Huynh, còn người em là Cao Đệ.

Thật không may cho hai anh em, trong một trận cuồng phong. Cao ông và Cao bà cùng một số bà con trong làng bị chết trong trận thiên tai khủng khiếp này. Nhà cửa bị đổ dập, tài sản bị cơn bão cuốn, phá hỏng hết. Từ đó hai anh em phải sống trong cảnh mồ côi. Ngày qua ngày, hai anh em nương tưa vào nhau, làm thuê làm mướn để kiếm cái ăn. Người anh làm việc chăm chỉ bao nhiêu thì người em cũng siêng năng không kém. Cả hai đều sống vui vẻ hòa thuận dưới mái nhà tranh.

Thương cảm cho hoàn cảnh anh em nhà họ Cao, một ông thầy dạy học đã nhận hai anh em làm học trò. Được thầy dạy học chu đáo tận tình, hai anh em lại thông minh nên học hành tấn tới. Với bản tính thật thà, chất phác lại chăm chỉ nên hai anh em được thầy rất quý mến như thể họ là con của mình. Trong nhà thầy có cô con gái đã đến tuổi lấy chồng. Nàng có nhan sắc hơn người, lại thông minh, có học vì thế mà nhiều chàng trai muốn ngỏ ý cầu hôn nhưng nàng vẫn chưa ưng ai.

Thấy hai anh em nhà họ Cao hiền lành tốt nết, người con gái của thầy đem lòng yêu mến nhưng không biết nên chọn người nào.

Một hôm nhân lúc bố mẹ đi vắng, nàng dọn một bữa cơm rồi mời hai anh em ở lại ăn. Khi ngồi vào mâm, người anh cầm đũa lên so cho bằng nhau rồi mới ăn, còn người em thì bê bát ăn ngay. Cô gái thấy thế thì quyết đinh sẽ lấy người anh làm chồng.

Nàng xin phép bố mẹ cho mình được lấy Cao Huynh. Và sau đó họ thành vợ, thành chồng.

Từ ngày người anh lấy vợ, tình cảm giữa hai anh em không được bền chặt như ngày trước nữa. Người anh dành phần nhiều tình cảm cho người vợ mà ít chú ý đến người em. Anh em không có nhiều thời gian tâm sự, chia sẻ như trước kia nên người em cảm thấy mất mát và rất buồn.

Một buổi, cả hai anh em cùng đi làm trên nương. Mãi cho đến lúc ông mặt trời lặn sau dãy núi họ mới trở về nhà. Trời tối mịt, căn nhà tranh có ánh đèn le lói, người vợ đang chờ người chồng đi làm về. Người em đi trước người anh. Người em vừa bước qua ngưỡng cửa vào nhà thì chị dâu từ trong buồng chạy ra nhầm chàng là chồng mình và ôm chầm lấy. Người em vội kêu lên, người vợ biết mình nhầm liền buông vội tay ra, cả hai chị em đều xấu hổ. Người anh bước vào sau thấy vậy sinh nghi, nghĩ rằng giữa vợ mình và em mình có quan hệ gì đó với nhau, từ đó tình cảm hai anh em ngày một xa cách.

Thấy người anh hiểu nhầm và càng ngày càng hững hờ với mình, Cao Đệ buồn lắm. Vào một ngày trời mưa tầm tã, Cao Đệ quyết định ra đi để cho anh mình được thanh thản và hạnh phúc. Ra khỏi nhà, chàng chẳng biết phải đi đâu, đành cứ theo đường mòn mà đi. Cao Đệ khóc nhiều lắm, nước mắt chàng nhoà trong nước mưa. Chàng cứ đi như thế cho tới khu rừng rậm, trước mặt chàng là con suối sâu, nước xanh biếc. Chàng không lội qua được và liền ngồi xuống nghỉ cho đỡ mệt.

Nghĩ đến cảnh mồ côi cha mẹ, nghĩ đến sự hiểu lầm của anh, Cao Đệ thấy hết sức cô đơn. Chàng luyến tiếc những ngày anh em chung sống, no đói có nhau, vui buồn cùng chia xẻ. Chàng lại khóc thổn thức nước mắt chàng thấm đẫm cả chỗ ngồi. Chàng cứ ngồi khóc như vậy cho đến gần sáng thì chết đi. Cao Đệ chết mà vẫn ngồi hướng về ngôi nhà nơi anh chị đang ở. Thân thể chàng biến thành một tảng đá bên con suối.

Người anh thấy em mình bỏ đi thì trong lòng rất buồn. Nghĩ lại thấy mình hẹp hòi, nghi oan cho cả vợ lẫn em làm gia đình xảy ra cảnh tan nát, Cao Huynh vô cùng ân hận. Buổi chiều hôm sau khi không thấy em trở về, chàng lặng lẽ đi tìm mà không nói cho vợ biết. Chàng cứ đi theo đường mòn mà đi, đi mãi tới khu rừng, đến con suối sâu không lội qua được chàng bèn ngồi nghỉ bên cạnh tảng đá to đẹp. Chàng nhớ em và khóc than rầu rĩ. Chàng ngất đi và chết đứng hóa thành một cây không cành mọc thẳng bên tảng đá.

Ở nhà, người vợ không thấy chồng trở về bèn vội vàng đi tìm. Nàng cũng theo đường mòn mà đi. Cuối cùng, nàng cũng đến bên con suối sâu. Nàng ngồi tựa vào gốc cây không cành mọc bên tảng đá và khóc thương cho chồng. Nàng cứ khóc như thế cho đến khi biến thành một dây leo cuốn chặt lấy cây mọc thẳng đứng.

Câu chuyện lan nhanh cả vùng, ai nấy đều thương xót cho cảnh ngộ của ba người. Vua Hùng một lần đi qua chỗ ấy được nhân dân kể chuyện thì rất lấy làm xúc động. Vua lấy lá cây leo ăn cùng với quả của cây không cành thì thấy mùi vị cay cay và thơm ngon, nhà vua thích lắm. Vua bèn nhổ nước vào tảng đá thì bỗng nhiên nước biến thành màu đỏ tươi. Nhà vua cho gọi cây mọc thẳng là cây cau, cây dây leo kia là cây trầu, tảng đá được đem về nung cho xốp để ăn cùng với trầu cau cho thơm miệng, đỏ môi.

Trầu, cau và vôi là biểu tượng thắm thiết của tình anh em thân thiết, tình vợ chồng chung thủy. Người ta dù có chết nhưng tình cảm anh em, vợ chồng thì không gì chia lìa.

(Bích Hằng tuyển chọn)

Nguồn: Nhà Xuất Bản Văn Hóa Thông Tin
Người Type:Tiếng Mưa Đêm
Về Đầu Trang Go down
Ntd Hoa Viên

Ntd Hoa Viên



TRUYỆN CỔ TÍCH VIỆT NAM Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: TRUYỆN CỔ TÍCH VIỆT NAM   TRUYỆN CỔ TÍCH VIỆT NAM EmptySat Dec 29 2012, 06:45

SỰ TÍCH THÀNH CỔ LOA


Sau khi lên ngôi, An Dương Vương đổi tên đất Văn Lang thành nước Âu Lạc, đóng đo ở Cổ Loa.

Khu đất mà An Dương Vương chọn để xây thành là một quả đồi, đất rắn chắc. Đám lính, phu xây thành mất nhiều ngày ròng rã mới khuân đất xây được tường thành cao vượt mặt người. An Dương Vương dự định sẽ xây một toà thành rộng lớn, chống được sự tấn công của quân thù, không sợ mưa gió sấm sét. Toà thành sẽ kiên cố và trường tồn.

Nhưng cứ sau một đêm, tất cả tường thành xây được của ngày hôm trước đều sụp đổ xuống không rõ nguyên nhân. An Dương Vương vô cùng tức giận, cho quân lính đắp đất chắc chắn, kiên cố gấp hai lần trước. Nhưng sáng mai ra, tường thành lại đổ sạt xuống.

An Dương Vương ngĩ rằng chuyện này tất có uẩn khúc, liền hỏi các Lạc hầu, Lạc tướng. Một vị Lạc tướng tâu; “Có thể đây là điềm trời chưa thuận, nhà Vua nên lập đàn tế để cầu xin, vì Vua xây dựng thành để lo giữ nước, yên dân không phải để lo hưởng phú quý!” An Dương Vương nghe theo, về nhà tắm rửa sạch sẽ, lập đàn cầu khấn xin trời phật chỉ cho.

Đêm đó, An Dương Vương thấy có một cụ già râu tóc bạc phơ hiện lên và nói rằng:

- Nhà Vua đừng lo, sáng mai hãy ra đợi ở bờ sông, sẽ có xứ giả của Vua Thủy Tề đến giúp Vua xây thành.

Sáng hôm sau, An Dương Vương dậy sớm, khăn áo chỉnh tề rồi cùng quân lính ra bờ sông đón đợi sứ giả.

Khi mặt trời lên, xua tan mây trên mặt sông, Vua nhìn thấy có một con rùa vàng bơi từ biển đông, theo sông bơi đến trước mặt Vua. Rùa vàng tự xưng là Kim Quy sứ giả, được Vua Thủy Tề phái đến đây để giúp Vua xây thành.

An Dương Vương vái lạy Quy thần rồi sai người mang mâm vàng ra kiệu Quy thần đến dưới chân thành. An Dương Vương hỏi thần Kim Quy kế xây thành, Quy thần trả lời:

- Thành sở dĩ xây lên, đổ xuống là vì có nhiều yêu quái phá phách. Chúng nó biến hóa thiên hình vạn trạng. Nhưng nhà Vua đừng lo, đêm nay cứ để chúng đến đây, tôi đã có cách tiễu trừ lũ yêu quái đó!

Đêm ấy, giông bão nổi lên, tiếng gió thét gào, không ai dám mở cửa ra ngoài. Bọn yêu quái kéo đến đã bị Quy thần dùng phép tiêu diệt sạch.

Sáng hôm sau, trời trong lành trở lại, thành xây được cũng không bị đổ nữa, An Dương Vương trong lòng rất vui đến tạ ơn Quy thần.

Quy thần bày cho An Dương Vương đắp thành nhiều lớp vòng quanh, xoáy theo hình trôn ốc. Vì thế An Dương Vương đặt tên thành là Loa Thành (thành ốc). Với sự giúp sức của thần Kim Quy, chỉ trong vòng mấy tháng, toà thành đồ sộ đã được xây xong. Đến lúc Quy Thần từ biệt An Dương Vương trở về Thủy cung. Nhà Vua vô cùng lưu luyến, nói:

- Cảm tạ thần linh đã giúp cho việc diệt trừ yêu quái, xây dựng toà thành vững vàng này. Dân Âu Lạc đời đời không dám quên ơn, nhưng một mai nếu có giặc ngoài đến vây đánh thì biết lấy gì mà chống lại giặc, bảo vệ thành?

Thần Kim Quy bèn rút một cái vuốt của mình trao cho Vua và nói:

- Nhà vua giữ lấy móng chân này để làm lẫy nỏ. Khi có giặc, đem nỏ ra bắn, một mũi tên đi có thể diệt được hàng ngàn quân thù. Nhưng chỉ được dùng nỏ khi có kẻ thù đến vây Thành. Xong việc phải cất nỏ ở một nơi kín đáo, không cho người lạ biết chỗ.

An Dương Vương vâng lời. Trước lúc đi, Quy Thần còn dặn:

- Khi nào có chuyện cần giúp đỡ, hãy chạy ra biển đông, kêu to ba tiếng thì ta sẽ hiện ra.

An Dương Vương khấu đầu lạy tạ, Quy thần đột nhiên biến mất. An Dương Vương chọn trong dám gia thần được một người làm nỏ rất khéo tên là Cao lỗ và giao cho Lỗ làm chiếc nỏ.

- Nhưng từ đó An Dương Vương quá tin ở nỏ Thần, không chăm lo việc giữ gìn bờ cõi, gươm biếng mài, quân biếng luyện.

Tuy vậy, Triệu Đà vẫn chưa dám động binh. hắn biết, với một thành lũy như Loa Thành An Dương Vương, lại có nỏ thần trong tay, chỉ dùng binh không xong phải dùng mẹo mới thắng được.

Nghe nói Vua An Dương Vương có người con gái yêu, chưa lấy chồng, Triệu Đà mượn cớ giảng hòa, cho sứ giả sang cầu hôn Mỵ Nương cho con trai mình là Trọng Thủy, mở đầu một quỷ kế hết sức xảo quyệt để thôn tính nước Âu Lạc.

(Xem Mỵ Châu - Trọng Thủy)


(Bích Hằng tuyển chọn)

Nguồn: Nhà Xuất Bản Văn Hóa Thông Tin
Người Type:Tiếng Mưa Đêm
Về Đầu Trang Go down
Ntd Hoa Viên

Ntd Hoa Viên



TRUYỆN CỔ TÍCH VIỆT NAM Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: TRUYỆN CỔ TÍCH VIỆT NAM   TRUYỆN CỔ TÍCH VIỆT NAM EmptyWed Jan 02 2013, 07:45

SỰ TÍCH HỒ BA BỂ


Năm ấy, lễ hội cúng Phật ở xã Nam Mẫu (tỉnh Bắc Cạn) hết sức náo nhiệt đông vui. Phật tử từ thập phương ai ai cũng nô nức kéo đến dự hội, họ lo làm thật nhiều việc tốt lành để cầu phúc cho bản thân và gia đình.

Giữa ngày hội, bỗng xuất hiện một bà già ăn xin. Một tay chống gậy, một tay cầm cái rá chìa ra bốn phía, miệng luôn mồm van nài:

-Xin ông, xin bà làm phúc.

Cái đói làm bà ta lả đi, cứ được một quãng lại ngã lăn ra đất, nằm bất động một lúc rồi mới lồm cồm bò dậy đứng lên đi tiếp được. Nhìn bà già thân thể gầy còm, lở loét gớm ghiếc, bà đi đến đâu mùi hôi thối xông lên đến đó, người nọ đồn người kia, đây là một người hủi đến làm ô uế cả cảnh chùa. Dù bà hết lời cầu xin mà mãi tận chiều vẫn không một ai rón tay làm phúc bố thí cho bà được chút gì hết! Chỗ nào bà lão ăn xin cũng bị mọi người xua đuổi, bà đành lê bước ra khỏi đám hội, đi vào trong làng hy vọng ở đấy, người ta sẽ cho bà chút gì để sống. Cũng giống như ở đám hội, đến nhà nào bà cũng bị đuổi đi, không ai dám lại gần vì sợ bà lây bệnh. May mắn sao ở ngã ba đường, bà gặp hai mẹ con nhà nông dân nọ vừa đi cấy về. Ở trong thúng của họ vẫn còn một bát cơm nguội cùng ít tép. Thấy bà lão ăn xin tội nghiệp, người mẹ liền đưa cho bà bát cơm và một ít nước uống.

Đêm khuya hôm đó, hai mẹ con người nông dân đang say trong giấc ngủ chợt có tiếng gõ cửa. Thì ra, lại vẫn bà già lúc chiều đến xin ngủ nhờ. Bà đã đi gõ cửa khắp các nhà trong làng nhưng chẳng ai cho vào. Hai mẹ con không ngần ngại gì, mời bà vào nhà, trải chiếu lên chõng cho bà ngả lưng. Bà lão vừa đặt lưng xuống bà ngủ liền, ngáy như sấm.

Trời về khuya, căn nhà chật hẹp, tối tăm, hai mẹ con nhìn vào bỗng thấy cái chõng sáng rực lên.

Trên chõng không còn bà lão ăn xin yếu ớt, lở loét nữa mà là một con giao long to lớn đang cuộn mình, đầu gác lên xà nhà, đuôi thò xuống đất. Hai mẹ con vô cùng sợ hải, vội nhắm mắt, nằm im cầu khấn trời phật cho tai qua nạn khỏi.

Sáng hôm sau, khi hai mẹ con tỉnh giấc thì chẳng thấy con giao long đâu nữa. Trên chiếc chõng tre, người đàn bà ăn xin hôm qua đang sửa soạn ra đi. Bà lão cảm ơn hai mẹ con người nông dân và nói:

-Làng này thờ cúng Phật mà không có lòng nhân đức thì kỳ thực chỉ là buôn bán Phật mà thôi. Chúng nó đáng phải chịu nạn chết chìm. Chỉ có hai mẹ con nhà bà là tốt bụng. Hai người hãy cầm lấy tro này, đợi ta đi khỏi rồi rắc ngay xung quanh nhà. Trong ngày hôm nay chớ có đi đâu, hoặc không thì hãy đưa nhau lên đỉnh núi cao mà tránh nạn lụt.

Người mẹ tay nhận gói tro nhưng trong lòng vẫn còn thắc mắc, bèn hỏi:

- Nếu khi nước lũ tràn về tôi muốn cứu mọi người thì sẽ phải làm như thế nào?

Mụ già ngần ngừ hồi lâu như không muốn nói. Nhưng rồi, mụ bèn lấy một hạt thóc, cắn vỡ ra, đưa vỏ trấu cho hai mẹ con và bảo:

-Hãy thả hai mảnh trấu này xuống nước, nó sẽ giúp hai mẹ con làm việc thiện.

Người mẹ toan hỏi thêm nhưng ngẩng đầu lên đã không thấy người đàn bà đó đâu nữa rồi. Hai mẹ con vội làm theo lời dặn, rồi đi kể cho những người hàng xóm xung quanh nghe, Nhưng không những chẳng ai tin họ nói, mà còn cho họ là mê sảng rồi mỉm cười bỏ đi.

Đến tối hôm đó, đám hội vẫn tiếp tục diễn ra như bình thường. Mọi người đang quỳ lạy, cúng bái thì bỗng có một dòng nước phun mạnh lên từ chính giữa bàn thờ Phật. Đất xung quanh đó nứt nẻ cả ra, dòng nước phun ngày càng mạnh. Dân làng ngơ ngác không hiểu chuyện gì, cứ tưởng là Phật Tổ hiển linh lại càng quỳ lạy, vái liên hồi.

Chỉ trong nháy mắt dòng nước phun trào lên cuốn phăng đi tất cả. Đến lúc này, mọi người mới bắt đầu hoảng sợ, chen lấn nhau chạy tháo thân. Nhưng họ chưa kịp chạy bao xa thì đất dưới chân họ bỗng rung chuyển rồi nứt ra, hất họ ngã lăn lóc trên mặt đất. Gió bão ầm ầm, mưa đổ như trút. Đất đá, nhà cửa, ruộng nương… trong một thoáng đều chìm nghỉm, nước bắn tung toé khắp nơi.

Chợt một tiếng ầm ầm dữ dội nổ ra, từ mặt nước hiện ra một con giao long to lớn. Con giao long cứ bay vòng quanh xã Nam Mẫu cho tới khi tất cả mọi thứ đều chìm trong nước mới biến mất.

Trong lúc đó, nhà cửa, vườn tược của hai mẹ con người nông dân kia mỗi ngày một cao, vượt lên trên mặt nước, không gặp nguy hiểm gì. Đứng từ trong nhà nhìn ra, hai mẹ con vô cùng đau xót trước cảnh ngập lụt của dân làng. Họ bèn đem hai mảnh vỏ trấu ra thả xuống nước. Chợt trươc mắt hai người hiện ra hai chiếc thuyền. Vui mừng khôn xiết, họ lập tức chèo thuyền đi khắp nơi, cố hết sức vớt những người bị nạn, mặc cho mưa to gió lớn đến mấy.

Ngày nay, vùng đất bị ngập nước xưa đã trở thành hồ, được gọi là hồ Ba Bể. Ở giữa hồ có một hòn đảo nhỏ, tương truyền rằng đó trước kia chính là nơi ở của hai mẹ con người nông dân nọ. Dân làng địa phương gọi đó là gò Bà Go (Pò Giả Mải), để tưởng nhớ đến công ơn của hai mẹ con đã cứu dân chúng trong cảnh lụt lội.


(Bích Hằng tuyển chọn)

Nguồn: Nhà Xuất Bản Văn Hóa Thông Tin
Người Type:Tiếng Mưa Đêm
Về Đầu Trang Go down
Ntd Hoa Viên

Ntd Hoa Viên



TRUYỆN CỔ TÍCH VIỆT NAM Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: TRUYỆN CỔ TÍCH VIỆT NAM   TRUYỆN CỔ TÍCH VIỆT NAM EmptySat Jan 05 2013, 09:02

SƯ TÍCH CHÚ CUỘI TRÊN CUNG TRĂNG


Khi ăn Tết xong, hai anh em nhà Cuội đi làm đồng thấy có một con rắn to họ bèn đuổi theo và đánh chết. Người anh liền cho vào ống lam và bảo Cuội: em mang rắn về trước để làm thịt và nấu cơm, còn anh ở lại tiếp tục cày nốt thửa ruộng.

Người em mang ống lam có con rắn về nhà, anh quẳng nó ngoài bờ giếng và đi chuẩn bị dao làm thịt rắn. Nhưng khi, quay trở ra thì ống lam vẫn nằm đấy mà không thấy con rắn đâu cả. Ngó vào chỉ thấy có chiếc lá, anh đoán rằng chính chiếc lá đó đã cứu con rắn thoát chết. Đoạn anh lấy chiếc lá ra và giắt vào người. Buổi chiều về người anh hí hửng nghĩ bụng tối nay sẽ được một bữa rượu thịt rắn thật ngon liền hỏi em:

-Con rắn có béo không em?

Người em bèn kể lại chuyển, con rắn đã được chiếc lá này cứu sống và nó đã bò đi mất rồi. Người anh nghe xong thì lấy làm nghi ngờ. Anh chẳng lạ gì tính nết thằng Cuội em trai anh. Nó tốt bụng nhưng hay bịa truyện trí trá làm trò cười, nên bà con thường bảo “nói dối như Cuội!” Lần này nó lại định giở trò gì đây, người anh nghiêm giọng:

- Con rắn đã bị đánh chết rồi, thì làm sao nó có thể sống lại và bò đi mất được. Nếu mày trót ăn thì cứ nói ra, đừng có “dở trò Cuội ra đấy.

Người em bị oan ức cố thanh minh và đưa chiếc lá ra làm chứng nhưng người anh nhất quyết không nghe. Điều qua tiếng lại hai anh em cãi nhau dẫn đến ẩu đả. Như đổ thêm dầu vào lửa người anh đang cơn tức giận không cơn tức giận không còn suy nghĩ được nữa, sẵn con dao trên vách, liền chém. Cho em một nhát chết ngay. Thấy người Cuội máu me be bét không còn cử động được nữa, người nh sợ quá liền mang xác em ra bìa rừng vứt đi. Nhưng lạ thay, chỉ một lúc sau vết chém trên người Cuội đã lành lại và anh ta từ từ mở mắt. Cuội đi về nhà, lấy dao ra ruộng làm tiếp công việc chưa xong. Thấy em mình vẫn khoẻ mạnh, bình thường như trước, người anh rất ngạc nhiên liền hỏi nguyên cớ:

-Em đã bị anh lỡ tay chém. chết rồi, sao bây giờ lại sống được vậy?

Cuội bình thản trả lời:

- Con rắn có thể nhờ chiếc lá ấy sống lại được thì em cũng có thể nhờ nó mà cải tử hoàn sinh được chứ sao!

Người anh biết mình đã nghi oan cho em thì ân hận lắm bèn xin em tha thứ. Từ đó hai an hem họ lại yêu thương nhau như ngày nào. Biết đấy là chiếc lá quý, Cuội cất giữ nó rất cẩn thận. Ở trong làng có ai bị ốm đau, bệnh tật, anh ta chỉ để chiếc lá lên người họ một lúc là họ tỉnh dậy và khoẻ mạnh ngay như chưa có bệnh tật gì. Được người em cứu giúp, nên bà con quý hai an hem lắm. Có gì ngon đều để phần mang đến cho an hem họ.

Tiếng đồn về người có chiếc lá quý, có thể cứu chữa được mọi căn bệnh hiểm nghèo nhất, đã lan truyền khắp nơi. Một buổi trưa khi hai anh em đi làm đồng về thì thấy có bà lão ngồi trước cửa đợi sẵn. Bà lão kể rằng bà có mội một cô con gái bị ốm từ lâu và mới đây đã qua đời, biết anh có chiếc lá quý có thể cứu người, bà đến cầu xin anh hãy cứu sống con gái bà. Nếu không thì bà cũng sẽ chết theo con gái mất. Thấy bà lão lặn lội từ nơi xa đến và nghe xong câu chuyện thương cảm kia. Cuội vội nhận lời đi cùng bà đến cứu cô gái.

Khi đến nhà bà lão, anh thấy người cô đã nhợt nhạt và lạnh toát đi rồi. Anh bèn đặt chiếc lá lên người cô gái rồi xoa nhẹ mấy lượt trên người cô, một lúc sau da dẻ cô gái đã hồng hào trở lại, cô bắt đầu khe khẽ cựa mình và từ từ mở mắt ra. Bà lão mừng quá hết lời cảm tạ Cuội, không biết lấy gì để hậu tạ anh cả, bà lão bèn gả luôn cô gái cho anh coi như đó là một sự đền ơn trả nghĩa. Cuội vô cùng sung sướng, ít lâu sau đó hai người làm lễ thành hôn. từ đó hai vợ chồng sống với nhau rất đầm ấm, ngày ngày người vợ ra đồng còn người chồng đi chữa bệnh cho tất cả những ai cần giúp đỡ. Cẩn thận, anh lại xé chiếc lá nhanh chóng mọc thành một cây tươi tốt.

Một hôm, có người tìm đến nhà xin anh chữa bệnh cho một viên quan ở tận trên kinh thành. Biết chuyến đi lần này lâu ngày mới trở về. Cuội mang theo nữa chiếc lá và dặn vợ:

-Tôi đi vắng, mình ở nhà, hàng ngày phải nhớ tưới cho cây bằng nước sạch, không được tưới nưới bẩn vào cây. Nếu có ai trong làng bị bệnh, thì nàng cứ ngắt lá đem đi mà chữa bệnh cho họ.

Nói rồi anh khăn gói lên đường. Ở nhà người vợ vẫn hàng ngày chăm chỉ tưới nước sạch cho cây như lời chồng dặn. Chẳng mấy chốc, cái cây đã lớn nhanh như thổi. Ngày tháng qua đi, người vợ mong ngóng mãi mà không thấy người chồng trở về. Cái cây giờ đã cao hơn nóc nhà, cành lá xum xuê như một cây cổ thu. Nhìn cây xanh tốt, chị vợ càng sốt ruột trông ngóng tin chồng.

Sau khi chữa khỏi bệnh cho viên quan, Cuội từ kinh thành trở về luôn phải dừng chân để chữa bệnh cho rất nhiều người, nên không thể vrrf nhà nhanh được. Người vợ ở nhà lo lắng quá, sinh ra bực bội, chị nghĩa bụng khi đi chồng dặn không được tưới nước bẩn vào cây, nay ta cứ thử tưới nước tiểu vào cây xem anh ta có nóng ruột mà trở về nhà không. Chị ta vào múc một gáo nước tiểu, ra tưới vào rễ cây. Lập tức, rễ cây bung hết ra khỏi mặt đất và từ từ bay lên trời.
Đúng lúc đó, anh chồng trở về đến nhà, thấy cây quý của mình đang bay lên trời. Tiếc của, anh vội vàng vứt bỏ tay nải chạy đến chỗ gốc cây để nhảy lên định níu cây lại. Nhưng với sức vóc của anh thì làm sao có thể giữ được cái cây to lớn đó lại được. Thế là cả người và cây cứ thế cùng nhau mà bay lên tận cung trăng mới dừng lại. Cuội không biết làm thế nào để trở về dưới hạ giới nữa, chỉ còn biết ôm lấy thân cây mà khóc, khóc mãi đến khi hết cả nước mắt và gục xuống bên gốc cây. Từ đấy, Cuội phải ở luôn trên cung trăng với cây quý một mình.

Ngày nay, vào những đêm trăng tròn, người ta vẫn thường nhìn thấy một hình người ngồi ôm lấy gốc cây ở trên mặt trăng. Họ bảo rằng đó là chú Cuội đang nhìn xuống tiếc nuối cuộc sống trần gian.

(Bích Hằng tuyển chọn)

Nguồn: Nhà Xuất Bản Văn Hóa Thông Tin
Người Type:Tiếng Mưa Đêm
Về Đầu Trang Go down
Ntd Hoa Viên

Ntd Hoa Viên



TRUYỆN CỔ TÍCH VIỆT NAM Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: TRUYỆN CỔ TÍCH VIỆT NAM   TRUYỆN CỔ TÍCH VIỆT NAM EmptyWed Jan 16 2013, 14:55

SỰ TÍCH BÁNH DÀY, BÁNH CHƯNG


Ngày đó. Vua Hùng thứ sáu trị vì đất nước đã nhiều năm. Thấy mình đã già, sức khỏe ngày một suy yếu, nhà Vua có ý định chọn người nối ngôi. Các bà vợ của nhà vua sinh được cả thảy hai mươi hai người con trai gọi là Quan Lang. Họ đều đã khôn lớn cả. Nhà Vua nghĩ:

- Kể về tài, cũng có nhiều Quan Lang hoàng tử nổi trội, khó phân biệt hơn kém, chính vì thế mà cần phải chọn lựa thật cẩn thận công bằng, để người kế vị phải thật xứng đáng.

Đây là điều nhà Vua bận tâm nhất. Cuối cùng nhờ có viên quan lạc tướng bày kế, nhà Vua quyết định mở cuộc thi để kén chọn người nối ngôi.

Vua Hùng bèn cho hội họp tất cả các Quan Lang lại. Khi họ đã về đông đủ, nhà Vua bảo:

- Cha biết mình đã gần đất xa trời. Cha muốn truyền ngôi cho một trong các con. Bây giờ mỗi con hãy kiếm hoặc làm một món ăn lạ để cúng tổ tiên. Ai có món ăn ngon, vừa ý ta nhất thì ta sẽ chọn người đó.

Nghe vua cha phán bảo, các Quan Lang thi nhau cho người đi khắp mọi nơi để tìm các sơn hào, hải vị quý hiếm. Họ lần mò khắp trên ngàn dưới biển không sót nơi nào. Bất kỳ thứ nào nghe nói là ngon và lạ, họ đều cố tìm cho bằng được.

Trong số đó chỉ có Lang Liêu là người con trai thứ mười tám. Vì thuở nhỏ mồ côi mẹ, nên Lang Liêu từng sống nhiều ngay cô đơn. Trong khi các anh, em khác chạy vạy đi tìm vật lạ, thì Lang Liêu vẫn ở nhà, chả có ai giúp đỡ chàng trong việc này. Chỉ còn ba ngày nữa là đến hạn mà Lang Liêu vẫn chưa có gì để đem dân Vua cha. Đêm ấy Lang Liêu nằm gác tay trên trán nhớ lại tất cả những bữa ăn ngon xưa nay mà chàng đã từng được tham dự. Lang Liêu suy nghĩ và mơ mơ màng màng thấy mình cùng với hai mươi mốt anh em khác đang làm bánh thi. Mỗi người có một gian nhà nhỏ mà Vua cha đã sai làm sẵn ở đám hội. Lang Liêu chưa biết bắt đầu bằng việc gì thì bỗng có một vị nữ thần từ trên trời bay xuống giúp chàng làm bánh. Nữ thần bảo:

- To lớn trong thiên hạ không gì bằng trời đất, của quý báu nhất trần gian không gì bằng gạo. Đừng làm nhiều, chỉ cần hai thứ bánh có ý nghĩa là đủ. Hãy nhặt hộ cho tôi chỗ nếp này, rồi đi kiếm cho tôi một ít đậu.

Lang Liêu thấy nữ thần lần lượt bày ra những tàu lá rộng và xanh. Nữ thần vừa gói vừa giảng giải:

- Bánh này tượng trưng cho Đất. Đất có cây cỏ, đồng ruộng, núi rừng thì màu cũng phải xanh xanh, hình phải vuông vắn. Trong bánh cũng phải có thịt, có đỗ để lấy nghĩa Đất chở cầm thú, cỏ cây… Hãy đặt tên cho thứ bánh này là bánh chưng. Rồi đem thứ nếp thơm đồ lên cho dẻo, giã ra làm thứ bánh tượng trưng cho Trời. Thứ bánh này màu phải trắng, hình tròn và khum khum như vòm trời… Hãy đặt tên cho nó là bánh dày.
Tỉnh dậy, Lang Liêu bắt đầu làm bánh y như trong giấc mộng.

Ngày hoàng tử được món ăn về dâng nhà Vua là một ngày náo nhiệt nhất ở Phong Châu. Người đông nghìn nghịt. Dân chúng mọi miền đều náo nức về dự cái Tết tưng bừng chưa từng có. Mở đầu bằng cuộc thi các món ăn và kết thúc bằng lễ đăng quang vủa nhà vua mới.

Đúng vào lúc mặt trời mọc thì Vua Hùng đi kiệu đến làm lễ gia tiên. Chiêng trống, cờ quạt tưng bừng, rộn rã. Tất cả đều ngong ngóng trông chờ lúc nhà Vua đánh giá các món ăn mà các hoàng tử dâng lên!

Và giờ phút mong đợi đã đến. Tất cả mhững món “Nem công, chả phượng, tay gấu, gan tê” của các con trai, được các đầu bếp tài giỏi nấu nướng cầu kỳ dâng lên Vua cha, trong đó có hai thứ bánh giản dị của Lang Liêu. Khi thoạt nhìn thấy cỗ của chàng. Một số vị lạc hầu, lạc tướng được nhà Vua chọn nếm thử trước khi dâng lên, đều lắc đầu, vẻ chê bai hiện ra mặt. Nhưng sau khi nếm xong, họ đều gật gù tán thưởng. Một vị tướng tâu lên Đức Vua:

- Đây là thứ bánh có hương vị khác thường làm ra từ những sản phẩm dân dã của quê hương.

Sau khi thưởng thức, Vua Hùng rất lấy làm ngạc nhiên và hết sức thích thú về thứ bánh của người con trai thứ 18 dâng lên. Nhà Vua ngắm kỹ những tấm bánh khác chưa bóc và cho gọi Lang Liêu lên điện, hỏi cách thức làm bánh. Hoàng tử Lang Liêu cứ thực thà tâu lên. Không quên nhắc lại giấc mộng kỳ lạ của mình.

Quá trưa hôm ấy, vua Hùng trịnh trọng tuyên bố với các con: Lang Liêu được giải nhất và sẽ được truyền ngôi. Nhà Vua cầm hai thứ bánh giơ lên cho mọi người xem và nói rõ cái cớ khiến cho mình chọn nó đứng đầu các thứ cỗ. Nhà Vua nói:

- Nó chẳng những ngon và quý mà con mang nhiều ý nghĩa đặc biệt: Nó bày tỏ lòng hiếu thảo của người con, tôn cha mẹ như trời đất; nó chứa đầy hình ảnh của quê hương đồng ruộng. Nó được làm từ những hạt ngọc quý nhất trong những hạt ngọc quý của Trời Đất. Đó là hạt lúa. Phải là một người có hiếu, có tài mới nghĩ ra hai loại bánh đó…

Từ đó thành tục lệ, hàng năm cứ đến ngày Tết, mọi người đều làm hai thứ bánh đó mà gọi là bánh chưng, bánh dày để thờ cúng gia tiên. Lang Liêu sau khi lên ngôi mang hiệu là Tiết Liêu Vương, tức Hùng Vương thứ bảy.


(Bích Hằng tuyển chọn)

Nguồn: Nhà Xuất Bản Văn Hóa Thông Tin
Người Type:Tiếng Mưa Đêm
Về Đầu Trang Go down
Ntd Hoa Viên

Ntd Hoa Viên



TRUYỆN CỔ TÍCH VIỆT NAM Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: TRUYỆN CỔ TÍCH VIỆT NAM   TRUYỆN CỔ TÍCH VIỆT NAM EmptyWed Jan 23 2013, 10:09

SỰ TÍCH BÁNH CHƯNG CẶP


Có hai vợ chồng nhà nọ từ lúc lấy nhau cho đến khi sinh con lúc nào cũng hay cãi cọ nhau, vì mỗi người một tính một nết, chẳng chịu hiểu nhau gì cả và cũng không ai chịu nhường ai.

Anh chồng thì suốt ngày chơi bời, nghiện ngập đủ thứ. Anh ta rất đam mê thú chơi chim: hết chim khướu rồi đến chim mồi. Có một lần, đang ngày mùa bận rộn, anh ta đem con trâu độc nhất trong nhà đi để đổi lấy chim mồi đẹp, rồi cứ ngồi uống rượu, nghe chim gáy.

Là người chủ gia đình, nhưng anh cũng chẳng thèm quan tâm xem nhà còn gì, mất gì, con cái ra sao, chỉ mải ăn chơi và phá phách.

Đã thế chị vợ cũng không kém, tuy chị ta khá chăm chỉ công việc đồng áng thu vén nhà cửa, nhưng cư xử lại rất vụng, thường mắng nhiếc chồng không tiếc lời, toàn những lời rủa độc địa!

Mỗi lần vợ chồng họ cãi chửi nhau ầm ĩ nhà cửa, hàng xóm ai cũng ái ngại cho cảnh gia đình họ.

Một năm nọ, ngày tết đã đến gần, trong làng gia đình nào cũng tưng bừng nhộn nhịp chuẩn bị tết.

Ngày 29 Tết, mọi người ai cũng lo sửa sang nhà cửa, quét dọn bàn thờ tổ tiên, trang hoàng thật đẹp đẽ, tiếng cười nói rộn rã suốt ngày đêm. Nhưng riêng chỉ có vợ chồng nhà đó vẫn chưa sắm sửa được gì. Mà còn cái gì đâu mà sắm, có mỗi con trâu thì chồng đã mang đi đổi lấy con chim mồi, còn con lợn còi trong chuồng thì không đủ làm bánh chưng Tết. Ngày hôm đó chẳng hiểu anh chồng đi uống rượu ở đâu say mềm, về đến nhà chửi bới một thôi một hồi rồi nằm lăn ra ngủ. Chị vợ thấy vậy tức quá cũng bỏ mặc: “Đã thế thì năm nay không có Tết nhất gì hết!” Buổi chiều, đứa con gái đi chơi về ngồi gần mẹ thủ thỉ:

- Mẹ ơi! Con thấy mọi nhà gói bánh chưng nhiều lắm, nhà mình chưa gói bánh hả mẹ?

Người mẹ đang cơn giận dữ, quát đứa con:

-Bánh à? Bảo bố mày đi thịt con chim mồi mà làm nhân bánh!

Người bố nghe thấy, nhưng vẫn giả vờ ngủ say. Đứa con gái sợ sệt không dám nói câu gì. Giữa lúc đó đứa con trai lớn chạy về, hớt hải hỏi bố:

-Bố ơi! Người ta mổ thịt những con lợn to lắm, nhà ta chưa thịt lợn để gói bánh ạ?

-Mày thử ra chuồng xem, con lợn bé hằng con mèo đói, mẹ mày co chăn lợn bao giờ đâu mà đòi có lợn to mà thịt!

Nói như vậy, nhưng người chồng cũng cảm thấy động lòng thương các con. Chúng đã không được bằng bạn bằng vè có áo đẹp, thì cũng phải có chút bánh chưng ăn chứ. Nghĩ vậy anh liền sang nhà hàng xóm vay một đùi lợn về cho vợ, rồi sau đó bỏ đi uống rượu. Trời tối, do uống quá nhiều, anh không về nhà nổi nữa, bước đi xiêu vẹo rồi ngã vật bên bìa rừng.

Người qua đường thấy anh nằm đó liền về báo cho chị vợ, nhưng chị ta vẫn dửng dưng.

-Uống cho lắm vào, hết say thì khắc biết đường bò về. Không về thì nằm đấy cho hổ nó bắt đi!

Rồi chị ta tiếp tục đãi gạo để gói bánh. Đến nữa đêm, khi các con đã đi ngủ hết, chị vợ mới sực nhớ ra là chồng mình vẫn chưa về, chị liền gọi đứa con trai dậy đốt đuốc đi tìm bố. Đến bìa rừng nơi lúc chiều anh chồng nằm, chị chẳng thấy gì hết, gọi mãi mà cũng không thấy ai trả lời. Lo sợ, hai mẹ con liền tiến sâu vào rừng để tìm kiếm. Đi được một đoạn, chị bỗng thấy một vạt cỏ bị quần nát, linh tính có điều gì đó không lành, chị vợ vội tìm xung quanh thì thấy có những vết máu còn vương trên cỏ. Đi tiếp, hai mẹ con nhìn thấy chiếc áo của người chồng đã bị rách tơi tả nằm vương trên cát.

Hai mẹ con hoảng hốt chạy vội về nhà, vừa chạy vừa khóc. Chị vợ lúc này lo lắng thực sự vì tin rằng hổ đã ăn thịt chồng mình. Bà con làng xóm nghe thấy mẹ con nhà họ khóc ầm, lúc đầu chẳng mấy ai quan tâm vì nhà ấy thì cãi nhau như cơm bữa. Nhưng thấy ba mẹ con gào khóc thảm thiết, mọi người liền chạy đến hỏi nguyên cớ. Khi biết được sự tình, họ khuyên nên để sáng sớm mai hãy đi tìm.
Sáng tinh mơ hôm sau, hai mẹ con đã vội vàng lần theo vết máu hôm qua mà tìm. Đi mãi, đi mãiđến gần trưa thì thấy xac người chồng nằm trên một bãi đất nhỏ. Vì uống quá nhiều nên người anh nồng nặc mùi rượu, có lẽ vì vậy mà hổ chê không ăn thịt anh!

Nhìn thấy chồng mình máu me bê bết, người vợ quỳ xuống ôm lấy xác chồng mà khóc. Đứa con trai nhìn thấy vậy sợ quá liền chạy về làng báo cho mọi người trong làng cùng biết.

Còn một mình ngồi đấy, chị kêu khóc thảm thiết, khóc đến không còn một giọt nước mắt và không ra tiếng nữa. Chị ân hận vì không quan tâm đến chồng, để đến nỗi chồng phải chết thảm đến như vậy. Vừa tủi thân vừa sợ hãi, chị chỉ mong cho hổ cũng cắn chết mình đi cho đỡ khổ. Vì khóc chồng mệt quá, chị cũng lả dần đi và không biết gì nữa.

Lúc dân làng kéo đến thì thấy hai vợ chồng họ đang nằm bên nhau, chị vợ đang ôm chồng. Tưởng chị mệt quá thiếp đi, bà con liền lay gọi chị dậy, nhưng chị đã chết từ bao giờ. Cảm thương cho số phận hai vợ chồng, bà con đưa xác họ về làng, và cùng nhau quyên góp mỗi người một chút ít để lo chôn cất cho vợ chồng họ. Hai đứa trẻ thấy bố mẹ đã chết thì sợ quá, cứ ôm nhau khóc bên xác bố mẹ chúng.

Được sự yêu thương chở che của bà con làng xóm, hai đứa trẻ mồ côi tội nghiệp cũng dần nguôi ngoai. Chúng rất thương yêu và đùm bọc nhau, hai anh em bảo ban nhau làm ăn rất chăm chỉ, chịu khó. Mỗi lần Tết đến, cứ đến ngày 29, 30 chúng lại nhớ đến ngày giỗ của cha mẹ mình. Hai anh em lại gói bánh chưng nhân thịt lợn, rồi buộc hai cái thành một cặp đặt lên bàn thờ để cúng cha mẹ.

Từ đó trở đi, người dân Cao Lan cứ mỗi năm Tết đến lại cùng nhau gói bánh chưng, buộc hai cái thành một cặp, luộc chính để thờ tổ tiên. mỗi khi nhìn thấy cặp bánh chưng họ lại nhớ đến câu chuyện thương tâm của hai vợ chồng nhà nọ, như là một lời nhắc nhở con người ta luôn phải sống sao cho có tình có nghĩa với nhau đừng để xảy ra bất hoà chia rẽ. Và cũng từ đó sự tích bánh chưng cặp mãi được lưu truyền cho tới tận ngày hôm nay.


(Bích Hằng tuyển chọn)

Nguồn: Nhà Xuất Bản Văn Hóa Thông Tin
Người Type:Tiếng Mưa Đêm
Về Đầu Trang Go down
Ntd Hoa Viên

Ntd Hoa Viên



TRUYỆN CỔ TÍCH VIỆT NAM Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: TRUYỆN CỔ TÍCH VIỆT NAM   TRUYỆN CỔ TÍCH VIỆT NAM EmptyWed Jan 23 2013, 10:11

SỌ DỪA

Có hai vợ chồng người dân quê đi ở cho một nhà phú ông từ hồi nhỏ. Hai vợ chồng ăn ở hiền lành, sống có phúc, nhưng ngoài năm mươi tuổi mà vẫn chưa có con.

Một ngày trời nắng gắt, người vợ đi vào rừng nhặt củi, bỗng thấy khát nước không chịu được. Nhìn quanh quẩn thấy một cái sọ dừa trên một tảng đá, trong sọ có nước mát. Khát quá, người đàn bà bê lên uống. Nước mát lạnh, bà thấy khoan khoái khác thường.

Từ đó về bà có mang. Chưa biết mặt con ra sao thì người chồng đột nhiên lâm bệnh hiểm nghèo rồi qua đời. Người đàn bà vô cùng đau khổ, nhưng nghĩ đến đứa con trong bụng, bà cố gắng làm để quên đi mọi chuyện không vui. Chín tháng sau, bà đẻ ra một cục thịt tròn lông lốc, có đủ mắt, mũi, mồm, nhưng không có mình mẩy, chân tay gì cả. Bà sợ hãi, toan vứt đi thì cục thịt cất tiếng người nói với bà rằng:

- Mẹ ơi, con là người đấy! Mẹ đừng vứt con đi mà tội nghiệp!

Bà nghe vậy cảm động, bọc cục thịt vào lòng, nâng niu, không vứt đi nữa.

Biết việc ấy, phú ông cho bà là yêu quái, bắt bà phải đem chôn cục thịt đi nhưng bà không chịu. Tức giận, phú ông đuổi bà ra túp lều hoang ở ngoài vườn sắn. Trông đứa con có hình thù kì dị, nhưng lại rất thông minh, bà đặt tên con là Sọ Dừa. Mỗi buổi sáng, trước khi đi làm, bà thường dặn con:

-Sọ Dừa ở nhà ngoan nhé, mẹ đi làm rồi sẽ mang về cho con nắm cơm.

Bà vừa đi khỏi, Sọ Dừa chui ra khỏi vỏ bọc, thành một cậu bé xinh xắn. Cậu nhanh chóng dọn dẹp nhà cửa đâu vào đấy rồi lại chui vào cái vỏ sọ dừa, ra nằm ở góc nhà đợi mẹ về. bà mẹ đi làm về lấy làm lạ nhưng rình mãi không thấy gì, cũng đành thôi.

Đi đâu thì Sọ Dừa lăn lông lốc, người trong làng trước còn sợ, sau dần dần cũng quen. Thấy Sọ Dừa khôn ngoan nhiều người còn cho Sọ Dừa quà ăn. Một hôm, bà về có vẻ buồn bã, không vui như mọi ngày. Thấy thế, Sọ Dừa hỏi, bà thở dài bảo con rằng:

- Con người ta bảy tám tuổi thì đã đi chăn trâu, chăn dê, còn con thì mẹ chẳng trông chờ gì được! Bây giờ phú ông còn một đàn dê mà chưa tìm được người chăn. Giá con như con người ta thì cũng kiếm thêm được chút gạo bỏ vào nồi.

Sọ Dừa nghe vậy nói với mẹ:

- Mẹ ơi, chăn được đấy, mẹ cứ vào nói với phú ông cho con chăn đàn dê đó đi!

Sọ Dừa giục mẹ vào nói với phú ông. Mới đầu, lão gạt phắt đi, sợ giao cho Sọ Dừa thì nó đánh lạc mất dê của mình. Nhưng thấy bà cụ nằn nì mãi, và nghe mọi người nói Sọ Dừa thông minh lắm, lão bảo:

- Thôi được rồi, mụ về bảo con mụ từ ngày mai, cứ sáng sáng thì vào đây, đuổi dê lên núi, tối lại lùa dê vào chuồng cho ta. Làm được thì ta giả công cho, nếu đánh mất dê thì ta đánh đòn và bắt đền, có chịu không.

Bà cụ nghe vậy thì vui mừng về nói với Sọ Dừa nhưng trong bụng bà vẫn lo.

Từ khi Sọ Dừa chăn đàn dê, thì ngày nắng cũng như ngày mưa, đàn dê lúc nào cũng no nê, con nào con nấy béo trục béo tròn, ai nhìn cũng thấy thích mắt. Phú ông thấy vậy thì rất hài lòng. Lão thích nhất là mỗi ngày, Sọ Dừa chỉ ăn hết có nắm cơm rất nhỏ của lão.

Phú ông có ba cô con gái, đứa lớn thì ác nghiệp, đứa thứ hai thì chua ngoa, chỉ có cô út là chăm chỉ, hiền lành. Ngày mùa, người nhà ra đồng làm cả, ba cô phải thay phiên nhau đem cơm lên núi cho Sọ Dừa. Một hôm, đến lượt cô út đi đưa cơm. Đi đến chân núi thì cô nghe thấy tiếng sáo véo von. Tiếng sáo lúc trầm, lúc bổng, lúc mau lúc khoan, thấm thía cõi lòng làm cô gái tự nhiên thấy bồn chồn, thổn thức. Núi nhấp nhô, cô trèo lên đến lưng chừng núi, chỗ đà dê đang ăn cỏ. Đứng nấp trong bụi nhìn ra, cô thấy một chàng trai đang ngồi trên chiếc võng đào thổi sáo. Những con chim quyên đậu cả trên võng của chàng. Chàng vẫn thổi sáo, không biết có người đang nghe trộm mình. Tiếng sáo của chàng vi vu khắp cả núi rừng. Người thiếu nữ mải nghe, mải nhìn, vịn phải cành cây khô, cành cây gẫy đếb “rắc” một tiếng. Nghe tiếng động, chàng trai vội chui ngay vào lốt dừa. Từ đó cô út đem lòng yêu Sọ Dừa. Có cái gì ngon, cô cũng cất đi để dành đến phiên mình đem cơm thì mang cho Sọ Dừa.

Hai mẹ con Sọ Dừa rất yêu thương nhau. Bà mẹ phiền một nỗi là con mình thân hình quái dị, nên không hi vọng con mình sẽ lấy được vợ và bà sẽ có con dâu, có cháu bế.

Sọ Dừa biết ý, bảo với mẹ rằng:

- Phú ông có ba người con gái, mẹ cố kiếm lấy buồng cau, vào hỏi xin một cô về làm vợ cho con.

Bà mẹ phì cười:

- Mày thì có ma nó lấy.

Nhưng Sọ Dừa giục mãi, bà đành kiếm một buồng cau và đến thưa chuyện với phú ông. Lão nghe vậy thấy nục cười, vuốt râu, cố nén giận bảo bà cụ rằng:

- Con mụ hình thù quái quỉ như thế mà cũng với cao thế cơ à?

Nhưng ngẫm nghĩ một lúc, lão lại bảo bà cụ:

- Mụ về bảo nó nếu có đủ sính lễ như ta yêu cầu thì ta sẽ gả con gái cho. Ta đòi một chĩnh vàng cốm, mười tấm lụa đào, mười con lợn béo, mười con dê béo, mười vò rượu tăm. Lại phải dựng lấy năm gian nhà ngói, câu đầu bằng bạc, xà ngang bằng đồng thì ta mới cho rước dâu về. Nếu thằng Sọ Dừa nhà mụ có thể kiếm được những thứ đó thì mụ sang đây nói cho ta biết. Nếu không thì nó sẽ phải suốt đời đi ở chăn dê cho ta.

Bà về nói với con, tưởng con thôi cái ý nghĩ viển vông, không ngờ, Sọ Dừa bảo với mẹ rằng:

- Mẹ sang nói ngay với phú ông rằng, con sẽ có những thứ ấy.

Bà mẹ sợ con nói đùa, ngần ngừ không đi, nhưng Sọ Dừa cam đoan với mẹ rằng không những có đủ mà sẽ có nhiều hơn.

Bà mẹ lại lóc cóc sang nói với phú ông, Lần này lão có vẻ ngần ngại: “ngộ nó có thật thì sao?” Lão bảo cụ:

- Để ta gọi cả ba đứa con gái của ta ra hỏi xem có đứa nào ưng lấy con mụ không đã.

Lão gọi ba cô con gái ra, hỏi từng người một. Hai đứa con gái lớn đều giãy nảy như đỉa phải vôi. Đến cô út, thì bừa nghe cha hỏi, cô liền thưa:

- Phận con gái trong nhà, cha đặt đâu, con xin ngồi đấy.

Phú ông biết không thể từ chối được bèn quay lại hẹn với bà cụ ngày đưa đồ sính lễ. Trong bụng vẫn cho rằng mẹ con Sọ Dừa chẳng qua chỉ nói láo. Nếu thế thì lão sẽ có một đứa chăn dê không công đến suốt đời!

Sắp đến ngày nộp sính lễ, Sọ Dừa vẫn hàng ngày đi chăn dê, chẳng tỏ ý lo lắng gì cả. Còn bà cụ thì lo quá, bảo Sọ Dưa:

- Mẹ cứ tưởng con nói thật nên mới nghe lời sang xin cưới con gái phú ông. Bây giờ con cứ ì ra như thế, mẹ biết phải tính sao đây!

Sọ Dừa thấy mẹ nói vậy thì chỉ cười, chẳng nói năng gì. Thấm thoắt chỉ còn một ngày nữa là đến hẹn mang sính lễ sang nhà phú ông. Nhìn trong nhà, bà cụ chỉ thấy vài manh chiếc rách, vài cái nồi đất, bà lo quá, chỉ muốn đem con trốn đi, sợ sai hẹn với phú ông thì rước họa vào thân. Bà đi lại không yên, buồn rầu nằm xuống võng, đắp chiếu ngủ thì lúc nào không biết.

Sáng hôm sau, vừa mở mắt thì bà thấy mình không còn ở cái lều cũ của mình nữa. Bà thy mình đang nằm trong chân gấm, trên sập gụ. Sọ Dừa cũng nằm trên đệm gấm, đắp chăn thêu. Lều tranh rách nát của bà đã biến thành một ngôi nhà gạch đồ sộ, câu đầu bằng bạc, xà ngang bằng đồng. Bà cụ sướng quá reo lên, nhưng nhìn con bà lại buồn phiền. Nhà cửa thế này mà con vẫn thế: người chẳng ra người! Nhìn quanh, bà thấy ở góc nhà có một chĩnh vàng cốm, mười tấm lụa đào, và ngoài sân, hai mươi con lợn béo, hai mươi con dê béo, hai mươi vò rượu. Bà sung sướng gọi con:

- Nào chú rể đâu, ra đây để đi đưa đồ sính lễ sang nhà gái nào. Thế này thì thừa rồi con ạ.

Sọ Dừa thưa với mẹ:

-Lợn, dê, rượu, mỗi thứ ta chỉ mang đi mười, số còn lại để làm cỗ mời khách.

Rồi Sọ Dừa lăn lông lốc từ trên sập gụ xuống đất. Anh quay xuống nhà dưới gọi lớn:

- Nào, chúng bay đâu cả rồi, mau ra đây khiêng đồ sính lễ cho ta.

Anh vừa gọi dứt lời thì có hai chục gia nhân vừa trai vừa gái ở nhà chạy lên. Người nào người ấy đều mặc áo the thẫm, thắt dây điều bỏ túi một bên. Bà cụ hoa cả mắt, không hiểu ra sao cả.

Các đồ sính lễ khiêng sang nhà phú ông, bà cụ cũng đủ gấm vóc lụa là, nón, dép để mặc đi đón dâu. Riêng Sọ Dừa vẫn lăn lông lốc theo mẹ.

Tại nhà phú ông, ai nấy đều không hiểu từ đâu mẹ con Sọ Dừa có được nhiều đồ sính lễ như thế. Trước mặt bà con chòm xóm, phú ông đành nhận lễ và gả cô út cho Sọ Dừa.

Chiều hôm ấy, Sọ Dừa rước dâu về, cỗ bàn thật linh đình, người nhà chạy ra, chạy vào tấp nập, làng xóm ngồi đầy năm gian nhà, chuyện trò như pháo ran.

Đến tối, khi các cây nến lớn đã thắp sáng nhà trên nhà dưới. Bà con trong làng sắp sửa ra về thì thấy một chàng trai rất đẹp, từ phòng bên đi ra với cô dâu. Mọi người đều sửng sốt. Hai người đến chào khách. Chàng thanh nhiên nói:

- Thưa mẹ, các cụ và bà con hàng xóm, tôi là Sọ Dừa. Vợ Chồng tôi xin ra đây cám ơn các cụ đã đến vui với gia đình.

Sung sướng nhất là bà mẹ Sọ Dừa, bà ôm chầm lấy con dâu, con trai, không nói ra lời. Cái tin Sọ Dừa trở thành một chàng trai khôi ngô tuấn tú bay sang nhà phú ông khiến hai cô chị vừa tiếc vừa ghen ghét với cô út, vừa tức tối.

Lấy được vợ hiền quản việc nhà, Sọ Dừa chú tâm vào lo dùi mài kinh sử, đợi kì thi. Sọ Dừa học hành thông minh, tiếng vang khắp vùng, ai cũng cho là thần đồng. Đến kì thi năm đó, Sọ Dừa đỗ Trạng Nguyên. Trong khi anh còn ở kinh thì nghe tin mẹ mất, liền vội về nhà. Chịu tang mẹ được ít ngày thì có chiếu của vua gọi anh đi sứ. Trước khi đi, anh đưa cho vợ hòn đá lửa, một con dao, hai quả trứng gà, dặn vợ phải luôn mang bên mình, phòng khi gặp nạn thì lấy ra dùng.

Từ khi thấy em lấy được chồng tuấn tú, lại thi đỗ Trạng nguyênm hai cô chị rắp tâm làm hại em, hòng thay em làm bà Trạng. Nay thấy em ở nhà một mình, thường lân la sang nhà chơi, tìm cơ hội hãm hại. Một hôm, trời trong gió mát, hai cô chị rủ cô út đi chơi thuyền. Không nghi ngờ gì, cô út vui vẻ nhận lời. Ba chị em xuống một chiếc thuyền con rồi trèo ra cửa sông, nơi gần biển. Sông rộng mênh mông, sóng to gió lớn, thường có cá to nổi lên nuốt cả nfười lẫn thuyền. Hai người chị chèo thuyền đưa em đi chơi một lát rồi cặp thuyền vào bờ. Hai cô chị nhảy lên bờ, thu nhặt mái chèo rồi đẩy thuyền ra giữa dòng nước. Thuyền không chèo, bị nước sông cuốn mạnh, nhấn chìm nghỉm. Bấy giờ hai cô chị mới hô hoán lên, giả vờ khóc lóc thảm thiết một hồi, làm như em đi chơi thuyền một mình bị đắm thuyền chết đuối.

Người em vừa chìm xuống mặt nước thì một con cá kình khổng lồ nuốt cả thuyền lẫn người vào bụng. Cô út vẫn tỉnh táo, bình tĩnh. Nhớ lời chồng dặn, côn lấy dao khoét bụng cá, làm cho cá vùng vẫy một lúc, chết nổi lên mặt nước. Xác cá trôi dạt vào một hòn đảo hoang. Cô út khoét bụng cá chui ra. Cô sờ vào túi thì thấy trong đó vẫn còn nguyên hai quả trứng và hòn đá lửa. Cô xẻo thịt cá, lấy muối ở bờ biển, rồi đem cá vào muối ở gốc cây khô, để dành ăn dần. Cô lấy cỏ khô, áp vào lửa, lấy dao đánh vào đá để có lửa sưởi ấm và nướng thịt cá. Cô lấy nứa, lấy lá dựng tạm một cái lều con ngay gần chỗ có nước. Ngày ngày cô vào rừng lấy củi, đào củ mài để ăn thay gạo. Một hôm cô út thấy hai quả trứng trong túi mình cựa quậy, cô đặt hai quả trứng vào ổ cỏ khô, một lúc sau bỏ trứng nứt, hai con gà con chui ra. Cô đào đất bắt giun cho gà ăn. Đoi gà mau lớn lắm. Chẳng bao lâu trông chúng đã rõ môt con trống, một con mái. Cô út coi đôi gà như con của mình. Đôi gà khôn lắm, chúng cũng cảm thấy tình cảm của cô nên cô đi đâu chúng cũng “liếp nhiếp” chạy theo.

Ngày tháng trôi qua, rừng rậm sông sâu, thân gái một mình, cô út không biết đường nào về nhà. Cô chỉ đành ngồi đợi có thuyền qua thì xin đi nhờ về. Một buủoi chiều, đột nhiên cô nghe thấy tiếng gà gáy ở ven sông:

- Ò… ó… o… Có phải thuyền quan Trạng thì vào rước cô tôi về.

Cô út vội chạy ra sông thì thấy con gà trống đang vươn cổ nhìn về phía một con thuyền lớn, cắm cờ đuôi nheo đi vào dòng sông. Thuyền càng đến gần thì gà càng gáy to:

- Ò… ó… o.. Có phải thuyền quan Trạng thì vào rước cô tôi về.

Cô út đứng gần đôi gà. Gà vừa gáy dứt lời thì cô thấy một người trong khoang thuyền bước ra, đứng ở mũi thuyền. Cô út vô cùng mừng rỡ khi nhận ra người đó chính là Sọ Dừa, chồng chị. Sọ Dừa trông thấy vợ, vội cho thuyền cập vào bờ, cả hai sung sướng ôm chầm lấy nhau. Vợ chồng Sọ Dừa vui mừng đến không nói lên lời. Sọ Dừa đón vợ xuống thuyền trở về nhà.

Sau khi nghe vợ thuật lại mọi chuyện, Sọ Dừa biết được lòng lang dạ sói của hai cô chị. Về nhà, anh giấu vợ vào trong buồng rồi bầy tiệc mời nhà vợ và bà con hàng xóm sang ăn. Hai cô chị ăn mặc thật lộng lẫy. Nghe tin quan Trạng trở về, hai cô giành nhau từ ở nhà, đứa nào cũng muốn thế em làm bà Trạng. Sang đến nhà Sọ Dừa, hai cô chị tranh nhau kể lại chuyện cô út chết đuối cho Sọ Dừa nghe rồi khóc lóc nhưng vẫn không quên liếc mắt đưa tình với quan Trạng. Rượu uống được nửa tuần. Sọ Dừa đứng dậy, xin phép vào nhà. Lúc sau, Sọ Dừa nắm tay vợ bước ra. Vừa trông thấy cô út, hai cô chị mặt mày tái mét, chân tay rụng rời. Thừa lúc mọi người hỏi han trò chuyện xôn xao, chúng lẻn ra ngoài rồi bỏ làng đi biệt.

Từ đó Sọ Dừa sống hạnh phúc với vợ đến trọn đời.

(Bích Hằng tuyển chọn)

Nguồn: Nhà Xuất Bản Văn Hóa Thông Tin
Người Type: Tiếng Mưa Đêm
Về Đầu Trang Go down
Ntd Hoa Viên

Ntd Hoa Viên



TRUYỆN CỔ TÍCH VIỆT NAM Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: TRUYỆN CỔ TÍCH VIỆT NAM   TRUYỆN CỔ TÍCH VIỆT NAM EmptySat Feb 16 2013, 18:55

QUẢ DƯA ĐỎ


Ngày xửa ngày xưa, vào đời vua Hùng, ở một cõi ngoài xa Phong Châu có một chú bé mồ côi. Là một chú bé linh lợi thông minh tuy còn nhỏ tuổi nhưng chú đã theo mọi người săn bắt. Chú cũng đi phụ công việc chài lưới với xóm giềng. Cuộc sống lao động đã rèn cho chú đức tính chịu khó, quả cảm và trung thực.

Năm lên 8 tuổi, chú theo một thuyền buôn đi Phong Châu. Vua Hùng trông thấy, mến chú, bèn mua về làm con nuôi. Mặc dù được làm con vua, nhưng chú vẫn luôn chăm chỉ lao động và siêng học hành. Lớn lên được nhà vua đặt tên là Mai An Tiêm, cưới vợ cho và hai vợ chồng họ sinh được một trai, một gái.

An Tiêm có tài năng và cần cù, được vua tin dùng, nơi nào mở đất, khẩn hoang gặp khó khăn An Tiêm đều được phái đến.

Có kẻ xấu ganh tị dèm pha với vua: “An Tiêm coi thường ơn vua, coi mọi thứ được hưởng đều là tự mình cả”. Vua nổi giận.

Lệnh cho thuyền đưa cả nhà An Tiêm đày ra đảo xa và không cho mang theo thứ gì ngoài lương thực cấp cho vài tháng.

Cả nhà An Tiêm trên thuyền lênh đênh ngoài biển cả. Mấy ngày đêm chỉ thấy trời và nước mênh mông không thấy bến, thấy bờ.

Thuyền cứ đi mãi, đi mãi, cuối cùng ghé vào một đảo hoang. Gia đình An Tiêm lên bờ, theo sau là mấy thủy thủ mang lên cho vài bao lương thực.

Những người thủy thủ đi áp tải gia đình An Tiêm, tuy rất yêu quý An Tiêm song họ phải làm theo lệnh vua để An Tiêm lại đảo. Cuộc chia tay thật bùi ngùi, thuyền từ từ quay mũi và khuất dần trên biển xanh. An Tiêm trông theo mà lòng buồn vô hạn. An Tiêm cứ đứng mãi, hai tay chắp lại vái vọng về đất liền, cho tới khi thuyền khuất bóng.

Xem lương thực thấy toàn bánh dày khô cứng, không có lấy một hạt ngô, hạt thóc. Lấy hạt giống đâu để trồng cây nuôi sống gia đình?

Vợ An Tiêm than khóc. An Tiêm cười bảo: “Trời đất sinh ra ta tất nuôi nổi ta. Nàng đừng quá lo, chúng ta sẽ cùng nghĩ cách”.

Thấy một mép bao khâu hơi đầy, An Tiêm tháo ra. Một lưỡi gươm nhỏ và một cặp đá lửa ai đã giấu gọn trong đó cho chàng. An Tiêm vô cùng cảm động, chàng nghĩ thế là gia đình ta đã có cách để sống rồi!

An Tiêm vơ cỏ khô, đánh lửa đốt lên. Vợ chàng nướng bánh trong lúc chàng đi kiếm nước ngọt.

An Tiêm thấy một chỗ cỏ tốt bèn đào một hố sâu, quả nhiên có nước ngọt dâng lên. Thế là An Tiêm đã có một cái giếng khơi. Chàng vui mừng vô hạn.

Chẳng mấy chốc hang đá đã ấm ngọn lửa hồng. An Tiêm thấy lòng mình dịu lại. Chàng nghĩ chỉ cần có tình yêu thương và lòng tin con người sẽ làm được tất cả. Cả nhà An Tiêm chuyển đến ở tạm trong một hang đá. Người trải cỏ khô làm giường, người kiếm củi đốt lửa, người lấy nước về đun. Cả nhà An Tiêm mỗi người một việc.

Đêm ấy Mai An Tiêm nằm vắt tay lên trán suy nghĩ: Vì sao mà tai họa khủng khiếp này lại giáng xuống gia đình chàng?

Mai An Tiêm vốn không phải xuất thân từ gia đình quyền quý, cũng không phải là gia đình giàu sang. Anh lớn lên cùng với biển cả nên anh thạo nghề chài lưới. Anh trưởng thành cùng với những nông phu, nên anh rất giỏi nghề trồng trọt, chăn nuôi. Nơi nào mở đất, khai hoang đều được nhà Vua phái đến trông nom, bàn tay anh đã từng giúp nhà Vua xây dựng những cung điện nguy nga. Anh được nhà Vua tin dùng do bàn tay tài hoa và trí tuệ mà anh đã đóng góp.

Từ một người có nguồn gốc dân giã, Mai An Tiêm trở thành một cận thần, chàng được nhiều người quý mến, nhưng cũng không ít kẻ ghen ghét, chỉ tìm cách dèm pha, nói xấu chàng với nhà Vua.

Hôm có chỉ đày Mai An Tiêm ra hoang đảo, nhà vua đã gay gắt: “Trẫm ban cho ngươi nhiều chức tước, bổng lộc, nhưng nhà ngươi là một kẻ kiêu căng, ngông cuồng, vô ơn và phạm thượng! Lẽ ra nhà ngươi phải tội chết, nhưng vì có chút công lao, ta cho ngươi sống ở một hoang đảo, thử xem bàn tay, khối óc của ngươi sẽ làm được những gì?!”

Bây giờ thì chàng đã hiểu ra. Chuyện bắt đầu từ buổi lễ chàng thiết đãi các bạn bè, các vị quan trong triều nhân dịp khánh thành toà nhà mới.

Nhiều người khen ngợi chàng, chẳng những thăng tiến về đường công danh mà còn trở thành một nhà đại phú. Lúc ấy chàng chỉ nói thật lòng: “Của cải mà tôi có được ngày hôm nay là do đôi bàn tay tôi làm ra. Công danh mà tôi đạt được cũng do trí tuệ mà có!”

Những kẻ ghen ghét với Mai An Tiêm coi đây là một lời nói phạm thượng, vì với họ mọi của cải, công danh ở trên đời này đều là của Vua, do Vua ban cho. Nói như chàng thì quả là một kẻ ngông cuồng.

Họ đã đem chuyện này thêm bớt để gièm pha, xúc xiểm với Nhà Vua. Và cơn thịnh nộ đã đổ xuống đầu chàng Mai An Tiêm tài hoa, bạc phận.

Chàng ngao ngán thở dài: Do vậy là phải sống, phải sống để chứng tỏ lời ta nói là đúng!

Ngày hôm sau, từ sớm tinh mơ, vợ chồng Mai An Tiêm đã ra bờ biển để bắt cua, mò ốc.

Nhờ con dao rựa, chàng đã làm ra cung tên để săn bắn, đẵn gỗ dựng tạm một túp lều. Nhưng cái đói vẫn treo lơ lửng trên đầu. Chàng chưa biết phải trồng trọt ra sao trên hoang đảo toàn cát và đá? Rồi lấy gì mà ăn khi số lương thực ít ỏi mang theo đã hết?

Một hôm có con chim trắng từ đâu bay tới, thả rơi vài hạt lạ trên cát. An Tiêm cùng vợ con chạy lại xem, họ cùng nhau đào lỗ chôn hạt lạ và chăm tưới hàng ngày. Cả nhà hồi hộp chờ một loài cây mới nảy mầm.

Ít lâu sau, từ lòng đất những hạt ấy mọc lên những cây xanh rì, dây bò lan ra mặt cát. Rồi có quả to như những con lợn con, vỏ xanh thẫm nằm ngổn ngang, vợ chồng chàng vừa vui mừng.

Rồi một hôm chim từ đâu bay đến ăn quả. An Tiêm ra xem, thấy bên trong quả có cùi trắng, ruột đỏ tươi, hạt đen rưng rức, thứ quả mà An Tiêm chưa thấy bao giờ.

An Tiêm ăn thử rồi trảy đem về nhà cho vợ con. Cả nhà ăn dưa, khen ngọt thơm. An Tiêm nói: “Quả lạ trời cho ta đó, phải gây trồng nhiều lên”.

Năm sau, cả nhà trồng dưa và trẩy hàng chục gánh quả. Niềm vui trồng được quả quý làm An Tiêm chạnh nhớ tới đất liền.

An Tiêm chọn nhiều quả to, đẹp, khắc chữ vào rồi thả ra biển. An Tiêm thầm mong những trái dưa ngọt sẽ trôi về đất liền, tới tay những người chàng yêu mến.

Những trái dưa bập bềnh trôi trên sóng biển tỏa đi muôn phương. Các thuyền buôn qua lại ngoài xa vớt được dưa và họ tìm đến đảo, đem lúa gạo hàng hoá đổi lấy dưa, theo họ nói, đây là thứ dưa quý hiếm, ai cũng muốn ăn, ai cũng muốn trồng. Nhờ dưa nên vợ chồng Mai An Tiêm có đủ thứ: gạo, muối, lợn gà, thóc giống.

Thuyền bè ra đảo mỗi ngày một đông. Nhiều người trong đất liền đã xin ra định cư ngoài đảo.

Trong vài năm, giống dưa lạ đã được trồng khắp nơi.

Một hôm Vua và hoàng hậu thưởng thức một giống dưa thơm ngon do một vị quan ở miền trong cúng tiến.

Vua thích lắm, hỏi nguồn gốc dưa từ đâu tới. Vị quan tâu: Dưa này gọi là dưa hấu, lấy từ hoang đảo, do một người tên là Mai An Tiêm trồng. Ông ta đã tả lại cho Vua nghe quang cảnh trù phú của đảo hôm nay. Người dân đã nhớ ơn Mai An Tiêm và tôn chàng là “Ông tổ của dưa hấu”.

Nhà Vua ân hận vì đã nghe lời bọn xiểm nịnh làm bại một nhân tài. Ngài cho gọi vợ chồng Mai An Tiêm về đất liền và cho phục chức cũ.

Giờ chia tay với đảo, lòng họ vừa vui vừa buồn, vui vì anh đã được trở về với gia đình, quê hương. Buồn vì phải xa một hòn đảo mà anh đã dày công xây đắp.

Sau này nhà Vua đã giao cho anh trở lại đảo để biến nơi này thành cửa ngõ vững chắc của đất nước.


(Bích Hằng tuyển chọn)

Nguồn: Nhà Xuất Bản Văn Hóa Thông Tin
Người Type: Tiếng Mưa Đêm
Về Đầu Trang Go down
Ntd Hoa Viên

Ntd Hoa Viên



TRUYỆN CỔ TÍCH VIỆT NAM Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: TRUYỆN CỔ TÍCH VIỆT NAM   TRUYỆN CỔ TÍCH VIỆT NAM EmptyWed Mar 06 2013, 09:40

SƠN TINH - THUỶ TINH


Tương truyền rằng vào đời Hùng Vương thứ mười tám đóng đô ở đất Phong Châu, lấy quốc hiệu là nước Văn Lang. Vua có một người con gái nhan sắc tuyệt trần không ai sánh kịp, tên là Mị Nương. Khi nàng đến tuổi cập kê, đã có rất nhiều chàng trai trong nước đến cầu hôn. Tất cả đều bị nhà vua từ chối vì ngài muốn chọn cho con gái mình một tấm chồng tài giỏi hơn người, và thật xứng đôi với công chúa.

Một hôm, có hai người, một người tự xưng là Sơn Tinh, một người thì xưng là Thủy Tinh, cùng tới yết kiến vua để xin cầu hôn công chúa.

Sơn Tinh là một chàng trai cao lớn, tuấn tú, có sức khoẻ phi thường. Chàng nguyên là thần núi Tản Viên, đã từng được thần Thái Bạch tặng cho một chiếc gậy có hai đầu: một đầu sinh, một đầu tử. Chỉ đầu sinh vào cây khô héo, cây sẽ xanh tươi trở lại, chỉ vào người chết, thì người chết sẽ sống lại. Còn nếu chỉ đầu tử vào cây cối, động vật, con người thì tất cả sẽ bị phá hủy. Một lần nọ, Sơn Tinh nhờ chiếc gậy thần đã cứu sống được con trai vua Thủy Tề. Chàng được mời xuống long cung chơi và lúc về được vua Thủy Tề tặng cho một quyển sách ước có thể ước gì được nấy. Vốn tính nhân hậu, Sơn Tinh đã cùng hai bảo vật của mình đi khắp nơi để giúp đỡ dân chúng nên được người người yêu mến.

Còn Thủy Tinh là người có vóc dáng nhỏ, thấp. Chàng vốn là Thần nước có nguồn gốc từ mãi ngoài biển Đông. Thủy Tinh tính tình nóng nảy, thường hay giận dữ làm nước của các song dâng cao, gây lũ lụt mất mùa nên không được lòng người.

Một người là Thần núi, một người là Thần nước, cả hai đều tài giỏi khác thường. Sơn Tinh chỉ núi, núi lở, chỉ đất, đất bằng. Chàng có thể chồng các ngọn núi lên nhau nhẹ nhàng như không, ra vào giữa các tảng đá mà chẳng trở ngại gì. Thủy Tinh cũng không chịu kém, chàng có tài hô phong hoán vũ, nắn dòng chảy của tất cả các con sông, làm cho nước biển dâng lên hạ xuống hàng ngày.

Thấy cả hai người đều ngang tài, ngang sức, nhà vua rất phân vân không biết phải làm thế nào để không mất lòng ai trong hai người. Nếu không, nhất định họ sẽ gây nhiều thiệt hại cho nhân dân trong khắp cả nước. Sau một hồi suy nghĩ, nhà vua bèn phán rằng: Hai vị đều là người tài giỏi khác thường, nhưng ta chỉ có mỗi một người con gái. Ta không biết sẽ phải gả con gái ta cho ai trong hai vị. Vậy ngày mai, hai vị hãy tới đây để cùng nhau so tài cao thấp. Ai là người chiến thắng thì ta sẽ gả con gái ta cho người đó.

Sáng sớm hôm sau, cả Sơn Tinh và Thủy Tinh cùng có mặt tại cung vua để thi thố tài năng. Trong phần so tài thứ nhất, vua sai người để một cái đích ở tít tận trên một đỉnh núi cao. Rồi nhà vua trao cho Sơn Tinh và Thủy Tinh mỗi người một chiếc cung tên giống hệt nhau rồi tuyên bố:

- Ai trong hai vị bắn được trúng cái đích sẽ la chồng của con gái trẫm.

Từ chỗ Sơn Tinh và Thủy Tinh đứng, nhìn về phía đỉnh núi, thì thấy tâm đích chỉ nhỏ bằng đầu chiếc kim khâu. Thủy Tinh không hề do dự, bước lên phía trước. Chàng cầm lấy chiếc cung của mình, nheo mắt nhìn đích rồi đặt tên vào cung và ngắm bắn. Mũi tên rời khỏi cung bay đi, và cắm vào đúng hồng tâm của đích. Nhà vua vô cùng hài lòng và vừa ý với kết quả của Thủy Tinh.

Đến lượt Sơn Tinh, vì đã quen với các đỉnh núi nên Sơn Tinh không cần phải ngắm bắn. Chàng giương cung lên, quay mặt về phía ngược lại với đích và buông dây cung. Mũi tên vun vút bay đi và cắm đúng vào hồng tâm của đích.

Nhà vua cùng các quan có mặt đều vỗ tay khen ngợi Sơn Tinh. Họ cùng công nhận rằng Thủy Tinh đã giỏi nhưng Sơn Tinh còn giỏi hơn. Thấy các quan cũng nói vậy, nhà vua định gả công chúa cho Sơn Tinh thì Thủy Tinh bước ra và tâu rằng:

- Muôn tâu bệ hạ, trước khi thần và Sơn Tinh so tài bắn cung, ngài chỉ nói rằng sẽ gả con gái cho người nào bắn trúng hồng tâm của đích, mà không nói là phải bắn như thế nào. Nay thần và Sơn Tinh tuy hai cách bắn khác nhau, nhưng cả hai đều bắn trúng đích. Nên không thể nói là Sơn Tinh bắn hơn thần được. Vì vậy nếu đúng như lời bệ hạ đã nói trước lúc so tài, thì công chúa sẽ không thuộc về ai trong số chúng thần hoặc thuộc về cả hai.

Nhà vua và các quan đại thần không ai có thể bác bỏ lý lẽ mà Thủy Tinh đưa ra. Vì vậy nhà vua cũng chưa biết sẽ gả con gái cho ai. Sau một hồi bàn bạc với các quan đại thần, nhà vua phán rằng:

- Ngày mai, ai trong hai người mang lễ vật đến đây trước thì trẫm sẽ cho rước dâu về nhà. Lễ vật của ta bao gồm: một trăm ván nếp, hai trăm nệp bánh trưng, voi chính ngà, gà chín cựa, ngựa chín hồng mao, mỗi thứ một đôi, không được thiếu dù chỉ là một thứ nhỏ.

Nghe nhà vua phán xong, Sơn Tinh và Thủy Tinh vội cáo từ đức vua ra về để nhanh chóng tìm kiếm lễ vật. Trong khi Thủy Tinh sai quân đi khắp nơi tìm cho đủ sính lễ thì Sơn Tinh may mắn hơn là có quyển sách ước. Chàng giở sách ra, xin những thứ mà vua Hùng yêu cầu. Ngay lập tức, đồ lễ vật không thiếu một thứ gì, đầy đủ hiện ra trước mặt chàng.

Tờ mờ sáng hôm sau, Sơn Tinh đã mang lễ vật đầy đủ đến cung điện trước Thủy Tinh. Chàng được phép lấy Mị Nương và rước nàng về núi Tản Viên. Thủy Tinh chậm chân đến sau, không lấy được vợ hết sức tức giận bèn đuổi theo Sơn Tinh hòng cướp lại Mị Nương. Thủy Tinh hô mưa gọi gió, dông bão kéo đến ầm ầm, trời đất mịt mù, tối sầm lại. Nước dâng lên ngày một cao theo nhiều ngả, cuồn cuộn chảy xiết, làm ngập hết cả đồng ruộng, nhà cửa, chảy vào tận dinh luỹ của Sơn Tinh. Sơn Tinh chống trả quyết liệt. Chàng bốc từng quả núi chặn đứng đường đi của các dòng nước, hễ thấy nước dâng cao lên bao nhiêu chàng lại nâng núi cao lên bấy nhiêu. Sơn Tinh còn ra lệnh cho quân lính đứng ở trên cao bắn cung tên xuống tiêu diệt hết bộ hạ của Thủy Tinh là các loài thủy tộc, khi chết biến thành thây ba ba, thuồng luồng, rắn nước… trôi tắc cả sông.

Qua mấy ngày đánh nhau ròng rã, thấy lực lượng bị tổn hao quá nhiều mà không thể làm gì được Sơn Tinh, Thủy Tinh đành ngậm ngùi rút quân về. Sơn Tinh thắng trận, cho dọn dẹp bãi chiến trường rồi mở tiệc khao quân suốt bảy ngày đêm. Chàng và Mị Nương công chúa từ đó sống hạnh phúc bên nhau.

Tuy bại trận, nhưng Thủy Tinh vẫn luôn giữ trong lòng một nỗi uất hận khôn nguôi. Chính vì vậy, hàng năm vào khoảng tháng bảy, tháng tám, Thủy Tinh lại dâng nước lên đánh Sơn Tinh. Mặc dù không thắng được Sơn Tinh một trận nào nhưng những đợt dâng nước của Thủy Tinh cũng gây ngập lụt, thiệt hại đến lúa má, tài sản của dân chúng quanh vùng chân núi.

(Bích Hằng tuyển chọn).

Về Đầu Trang Go down
Trương Định

Trương Định



TRUYỆN CỔ TÍCH VIỆT NAM Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: TRUYỆN CỔ TÍCH VIỆT NAM   TRUYỆN CỔ TÍCH VIỆT NAM EmptyWed Mar 06 2013, 09:58

Cây Tre Trăm Đốt
(Phiên bản thơ)

Truyện xưa kể lại chàng Khoai
Cầy thuê, cuốc mướn gấp hai người làm.
Trong vùng độc ác tham lam
Phú ông gian xảo tính cam lừa người.
Khoai thì vốn tính tin đời
Phú ông kế mọn cùng lời hứa suông,
Hứa rằng gả Út cho không
Khoai làm chăm chỉ chẳng buông một ngày.
Ba năm làm việc hăng say
Thời mà hạn đến đắng cay lại tìm,
Lão thêm điều kiện thế kìm
”Cây tre trăm đốt” đi tìm về đây.
Mong bên tổ ấm dựng xây
Lên rừng tìm kiếm tràn đầy quyết tâm,
Tre nào đốt có một trăm
Ba mươi còn hiếm, lặng thầm khóc than,
Lúc này Bụt hiện giải nan
Chặt về trăm đốt, ta ban hai điều,
Hai lần “Khắc nhập” mỹ miều
”Cây tre trăm đốt” một chiều với nhau,
Đôi lần ”Khắc xuất” một câu
Tre rời trăm đốt, vác thâu về nhà,
Đường về nhìn thấy đằng xa
Cỗ bày tiệc cưới,biết là ai đây?
THì ra quan huyện ngỏ bày
Tức mình Khoai hỏi,nuốt cay tạm thời.
Hứa rằng Lão đã có lời
Tại sao nỡ gả cho người Quan nha,
Lão ta dõng dạc nói ra
”Cây tre trăm đốt” sao mà rời kia,
Ngay thì “Khắc nhập” Khoai la
”Cây tre trăm đốt” lão ta dính liền,
Khách ngồi xanh mặt khi nhìn
Lão ta khóc lóc cầu xin tội mình,
Huyện quan mắt ngước lặng thinh
Đôi lần “Khắc xuất” chứng minh chưa nào,
Vậy là hạnh phúc ngọt ngào
Khoai cùng với Út cùng trao hết đời.

Chưa thực sự hoàn chỉnh, mọi người đọc có thể góp ý sửa để được hay hơn. vui vẻ

Về Đầu Trang Go down
Nguyên

Nguyên



TRUYỆN CỔ TÍCH VIỆT NAM Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: TRUYỆN CỔ TÍCH VIỆT NAM   TRUYỆN CỔ TÍCH VIỆT NAM EmptyWed Mar 06 2013, 10:44

Ow, thơ TĐ hay quá đi... Chỉ biết khen, còn biết nói gì đây? vui vẻ
Về Đầu Trang Go down
Ntd Hoa Viên

Ntd Hoa Viên



TRUYỆN CỔ TÍCH VIỆT NAM Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: TRUYỆN CỔ TÍCH VIỆT NAM   TRUYỆN CỔ TÍCH VIỆT NAM EmptyWed Mar 20 2013, 12:39

ÂU CƠ - LẠC LONG QUÂN


Thuở ấy đất trời còn hoang vu. Những ngọn núi cheo leo quanh năm mây phủ, những cánh rừng già rậm rịt, lau lách đìu hiu. Một ngày, rồng vàng xuất hiện bay lượn sau quầng mây ngũ sắc. Rồng bay vào đất liền hóa thân thành một chàng trai khôi ngô tuấn tú. Đó là Lạc Long Quân, con trai của Kinh Dương Vương, tổ tiên của người Lạc Việt, cha, ông của các vua Hùng. Chàng dũng mãnh như một thần linh, đánh thức sự sống của rừng đại ngàn hoang dại. Cỏ hoa tươi thắm đua nở, muông thú mừng vui, tôn vinh chào đón chàng. Một ngày Lạc Long Quân dừng chân bên con suối. Những tảng đá lớn từ vách núi đổ xuống chận mất dòng chảy khiến suối cạn trơ sỏi đá. Dưới lòng suối cạn, có một con rùa bị đá đè, đang vươn cổ, cố thoát thân. Ánh mắt nó đầy vẻ thất vọng vì bất lực. Lạc Long Quân gồng mình đẩy những tảng đá lớn đi. Nước nguồn được giải thoát, ào ào chảy như một con thác lớn xô xuống làm bật tung tảng đá đè trên lưng rùa. Mặt suối bỗng tỏa lên những làn khói biếc. Rùa biến thành một ông già quắc thước, cuối đầu cảm tạ chàng và hẹn có ngày đến đáp công ơn của chàng. Dứt lời, ông già biến mất. Lạc Long Quân bàng hoàng xúc động nhìn theo con rùa đang bơi xa dần theo dòng nước. Chợt núi rừng tối sầm, trời mây vần vũ, gió xoáy ào ào. Một con ác điểu xuất hiện.

Nó là giống chim ác đã sống hàng ngàn năm, thường ăn thịt nhiều loài chim quý, thú lạ và trở thành Điểu tinh. Điểu tinh sà xuống, dùng những chiếc móng sắc quặp chặt một con chim trắng. Lạc Long Quân nhặt một hòn đá sắc nhọn, ném vút lên trúng ức Điểu tinh. Điểu tinh choáng váng, buông rơi chim trắng và lao xuống vực sâu. Thoát khỏi móng vuốt của điểu tinh, chim chao đảo rơi xuống. Lạc Long Quân bay người lên đưa tay đỡ chim trắng. Chim đau đớn thoi thóp thở. Chàng vội đưa chim vào hang đá đặt nằm trên một phiến đá phẳng rồi gỡ tấm khăn choàng vẩy rồng đắp cho con vật.

Dưới vực sâu, Điểu tinh đạp cánh biến thành một con hổ xám, lồng lộn, gầm thét nhìn Lạc Long Quân đang đứng sừng sững trên sười núi. Chàng vươn mình bẻ một nhũ đá làm vũ khí quyết giao tranh với hổ xám. Từ vực sâu, hổ xám nhún chân nhảy vọt lên, Lạc Long quân từ sườn núi tung mình lao xuống đâm trúng họng hổ xám. Cả hai cùng lăn xuống vực. Vừa chạm chân xuống đất chàng đã vùng dậy ấn sâu mũi đá vào họng hổ xám. Hổ xám quằn mình giãy giụa rồi tắt thở. Xác hổ trở lại nguyên hình Điểu tinh rồi bốc cháy, thân cánh tan thành tro bụi.

Trở lại hang đá, Lạc Long quân kinh ngạc thấy nơi chim trắng nằm hào quang lung linh tỏa sang. Một tiên nữ đầu đội mũ long chim, xiêm y lộng lẫy hiện ra. Đó là nàng Âu Cơ, con gái của Đế Lai, người mà chàng đã nhiều đêm dung cây đàn và giọng hát của mình để chinh phục. Nàng bước tới trao trả chàng chiếc khăn và nói: Nàng đã xin phép cha mình được cùng chàng kết tóc xe tơ. Đế Lai cũng đã vui lòng rút quân về phương Bắc để vùng Lĩnh Nam này cho chàng cai quản.

Từ đó trên vòm trời Âu Lạc những đêm trăng sáng, rồng vàng bay lượn cùng chim trắng. Đó là những đem giao hoan hạnh phúc của tiên nữ Âu Cơ và Lạc Long Quân. Trên triền đồi thoai thoải, một mái nhà sàn được dựng lên. Đó là tổ ấm, là nơi cư ngụ đầu tiên của hai người. Một hôm, rừng già bỗng chuyển động, gió rít ào ào, thú rừng nháo nhác tìm nơi ẩn trốn.

Trong Rừng có một cây đại thụ hình thù kỳ dị. Đó là Mộc tinh. Cứ mỗi năm một lần sau giấc ngủ triền miên, khi thức dậy, nó lại gào thét điên cuồng, tàn phá núi rừng, giiết hại muông thú. Một chú nai chậm chân bị Mộc tinh vươn cánh tay dài đầy gai tóm gọn, giơ lên, ngoác miêng cười sằn sặc. Chú nai hoảng sợ, giẫy giụa một cách tuyệt vọng. Âu Chơ vội rút chiếc lông chim trên đầu trao cho Lạc Long Quân. Chàng vừa đưa tay đón nhận, chiếc lông chim bỗng hoá thành một thanh lao. Mũi lao rực đỏ phát ra những tia lửa. Lạc Long Quân băng mình chạy tới chỗ Mộc tinh, con quái vật phùng mồm thổi ra một luồng gió buốt lạnh cản đường chàng. Sức gió ào ào như trận cuồng phong làm bật gốc những cây lớn, đất đá văng khắp nơi, bụi bay mù mịt. Gió mỗi lúc một mạnh như muốn hất tung Lạc Long Quân đi. Chàng căng mình, vượt gió lao tới như một mũi tên. Mộc tinh vung bộ rễ chụp xuống đầu chàng như một chiếc lồng sắt, rồi xiết chặt lại. Nhưng mũi lao trong tay Lạc Long Quân toé lửa, làm Mộc tinh đau đớn, quằn quại. Thừa lúc Mộc tinh hốt hoảng, Lạc Long Quân phi mũi lao vào mắt quái vật. Lửa phun ra từ hai hố mắt, Mộc tinh gào rú điên cuồng. Ngọn lửa rừng rực cháy lan khắp than mình Mộc tinh và phút chốc đã biến quái vật thành đống tro than. Mộc tinh đã bị diệt, Âu Cơ, Lạc Long Quân từ biệt núi rừng tìm đường về miền châu thổ. Thú rừng lưu luyến tiễn đưa họ.

Trải qua nhiều ngày xuyên rừng vượt núi tới một con sông lớn, hai người còn đang bối rối chưa biết vượt sông bằng cách nào, thì từ giữa sông, một con rùa ngoi lên, bơi sát bờ. Rùa đền trả ơn xưa, biến thành chiếc thuyền độc mộc đưa họ xuôi theo dòng sông. Khi thuyền vừa tới biển, bỗng gặp những con sóng lớn tung bọt ào ào ập tới như muốn nhấn chìm tất cả xuống đáy biển. Từ mũi thuyền Lạc Long Quân nhìn thấy một con cá khổng lồ đang quật đuôi tạo ra những con sóng khủng khiếp. Đó là Ngư tinh đã mấy ngàn năm tung hoành ngang dọc trên biển cả, gây ra biết bao tai hoạ…

Thuyền giạt vào bờ, Rùa lại hiện nguyên hình, từ giã hai người, trở về với biển. Lạc Long Quân đưa Âu Cơ lên mỏm đá cao rồi cầm ngọn lao quay lại tìm Ngư tinh. Lướt trên đầu sóng, Lạc Long Quân dùng hết sức mạnh đâm thẳng mũi lao vào quái vật. Bị trọng thương, Ngư tinh tức giận lồng lộn vung đuôi quật ngang mình Lạc Long Quân. Chàng choáng váng ngã nhào xuống vùng nước xoáy. Ngư tinh há miệng chồm tới định nuốt sống Lạc Long Quân. Chàng nghiêng mình né tránh và xuyên thẳng ngọn lao vào cổ Ngư tinh. Chàng hất tung Ngư tinh lên không trung. Khi thân xác khổng lồ của nó rơi xuống bờ đá nhọn sắc thì bị toác thành hai khúc. Từ đó biển khơi trở lại thanh bình, không còn bị Ngư tinh quấy phá.

Ngày tháng trôi qua. Tình yêu của Âu Cơ và Lạc Long Quân ngày càng đầm thắm. Một ngày đẹp trời, đàn chim trắng từ phương xa bay tới chao liệng trên mái nhà sàn. Đó là ngày Âu Cơ mãn nguyệt khai hoa, nàng trở dạ sinh ra một bọc trứng. Lạc Long Quân mừng rỡ ôm bọc trứng đặt giữa vườn cây đầy hương thơm hoa trái. Bọc trứng giống như một bông hoa sen to đẹp, đài hoa xoè cánh tỏa ánh hào quang soi sáng hàng trăm quả trứng trắng hồng bên trong. Âu Cơ sung sướng, hồi hộp chờ đợi. Trứng cực mình tách vỏ, nở ra một trăm cậu con trai bụ bẫm, hồng hào. Các chú bé xinh đẹp như những tiên đồng. Lũ trẻ ríu rít bên mẹ Âu Cơ. Nàng trìu mến vuốt ve đàn con nhỏ.

Thời gian thấm thoắt trôi đi, chẳng mấy chốc các chú bé đã lớn khôn trở thành những chàng trai tài giỏi, dũng cảm như cha và có tấm lòng nhân hậu như mẹ. Âu Cơ - Lạc Long Quân chăm sóc nuôi dạy các con tinh thông võ nghệ, giỏi sắn bắt và trồng trọt.

Mùa xuân đến, hoa mai, hoa đào chen nhau đua nở. Khi các con đã trở thành những chàng trai tài trí, cũng là lúc Âu Cơ - Lạc Long Quân lưu luyến chia tay để đưa các con đi mở mang đất nước. Đàn voi nối đuôi nhau xuyên rừng, vượt suối, đưa Âu Cơ và năm mươi người con lên rừng. Họ đốt nương làm rẫy, trồng cây gieo hạt, khai khẩn đất đai. Còn đoàn thuyền độc mộc thì đưa Lạc Long Quân và năm mươi người con theo sông ra biển. Cha con sớm hôm miệt mài lặn lội làm nghề chài lưới đánh bắt cá tôm.

Từ ngày ấy, khắp núi rừng mọc lên những bản làng trù phú, những nương ngô, ruộng lúa xanh tươi. Những chàng trai không phải chỉ biết trồng trọt giỏi mà còn là những thợ săn dũng cảm tài ba. Cứ đến vụ thu hoạch lúa ngô, bên dòng thác đổ, Âu Cơ và các con lại nhịp nhàng, uyển chuyển trong những vũ điệu tràn đầy sức sống dưới ánh lửa rừng. Đó là những lễ hội tạ ơn thần linh đã đem đến cho núi rừng, bản làng một cuộc sống ấm no hạnh phúc. Dưới biển, ngày ngày Lạc Long Quân cùng với các con ra khơi tung lưới bắt cá. chiều về thuyền đậu san sát ven bờ, lưới phơi trùng điệp. Làng chài ven biển nhộn nhịp ngày đêm. Những khi biển lặng, Lạc Long Quân lại cùng các con lặn xuống đáy biển mò ngọc trai, làm thành những đồ trang sức mang lên rừng tặng Âu Cơ.

Hàng năm, Âu Cơ sai các con chuyển về xuôi những súc gỗ quý để Lạc Long Quân và các con dựng nhà, đóng thuyền. Trải qua hàng ngàn năm, các vua Hùng, con cháu của Âu Cơ - Lạc Long Quân, với trí thông minh và lòng dũng cảm đã dẫn dắt người dân Lạc Việt chinh phục thiên nhiên mở rộng bờ cõi. Ngày nay, các dân tộc sống trên dải đất Việt Nam từ miền núi đến miền xuôi đều tự hào là con Rồng cháu Tiên, người trong một nước gọi nhau là “đồng bào” – có nghĩa là “cùng trong bọc mà ra”.

(Bích Hằng tuyển chọn)

Nguồn: Nhà Xuất Bản Văn Hóa Thông Tin
Người Type: Tiếng Mưa Đêm
Về Đầu Trang Go down
Ntd Hoa Viên

Ntd Hoa Viên



TRUYỆN CỔ TÍCH VIỆT NAM Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: TRUYỆN CỔ TÍCH VIỆT NAM   TRUYỆN CỔ TÍCH VIỆT NAM EmptyThu Apr 11 2013, 20:06

GÀ TRỐNG CẤT TIẾNG GÁY


Xưa kia, giữa vũ trụ bao la có hai mặt trời: Một to, một nhỏ. Mặt trời to là mẹ, Mặt trời bé là con. Ban đầu, hai mẹ con Mặt trời đều ở tít trên cao, nhưng xa mặt đất, xa giống người, mẹ con Mặt trời cũng thấy buồn. Nghe tiếng người t rò chuyện, lại hát với nhau ai cũng thấy vui. Mẹ con Mặt trời bàn nhau phải xuống thấp dần, thấp dần. Nhưng Mặt trời chiếu sáng, nóng quá, con người không chịu nổi, liền gọi nhau cùng ra bãi núi, nhìn lên trời kêu gào xua đuổi Mặt trời đi. Có người thô lỗ còn cất tiếng chửi. Mặt trời mẹ bực lắm, nói vọng xuống:

- Được, ta cùng con ta đi nơi khác ngay đây! Con người thiếu mặt trời không sướng đâu mà!

Nói sao, làm vậy. Hai Mặt trời lùi cao dần, cao dần, cao mãi, đi xa dần, xa mãi. Người bớt nắng, bớt nóng dễ chịu lắm. Còn Mặt trời vẫn chưa ngừng cuộc hành trình của mình, vẫn mỗi ngày đi xa con người, xa mặt đất hơn. Cho tới lúc,mất đất tự nhiên tối sầm, tối hẳn, không còn có ngày, có đêm, có tối nữa. Lúc nào mặt đất cũng chìm trong bóng đêm lạnh lẽo, đáng sợ. Thú dữ tha hồ kéo nhau đi kiếm ăn, không sợ người săn bắn, đặt bẫy nữa. Mùa lạnh, nguời rét run lên vì thiếu ánh nắng sưởi ấm. Người ốm, súc vật ốm nhiều lắm. Rồi người chết,súc vật chết trong cõi tối tăm ghê rợn. Con người kêu la, khóc lóc thảm thiết. Bầu trời vẫ tối như bịt mắt.

Người đi cầu ông Sáng Sần (thần núi) giúp đỡ, kêu xin cho Mặt trời trở về với người, chiếu sáng mặt đất. Thần núi nhận lời, đi tìm ánh sáng cho người.

Mặt trời nói với Thần núi:

- Con Người nó đã đuổi tôi. Nay muốn tôi về thì phải cầu xin, phải biết cách chào mời. Gọi đều, mời đều từng ngày,tôi mới về.

Người không biết gọi, không biết chào mời liền họp các loài muông thú lại bảo cho chúng biết chuyện ấy. Lần lượt, chim hót, chuột rít, hổ gầm, vượn hú, chó sủa, mèo kêu. Mỗi con đều thử một lần,hai lần nhưng đều vô hiệu. Ánh sáng vẫn không tới, mặt trời vẫn chưa về với mặt đất.

Người lại cầu xin Thần núi, lần này Thần núi cho biết:

- Mặt trời chỉ thích nghe tiếng hát của gà trống thôi!

Gà vui lòng nhận lời. Từ đó, hễ gà trống hát lên lần thứ nhất thì Mặt trời thức giấc đem ánh sáng về cho người làm lụng, đi nương đi rừng. Gà hát lần thứ hai thì mặt trời cất ánh sáng đi cho người đi ngủ, nghỉ ngơi, nhưng chỉ có Mặt trời mẹ thôi. Mặt trời con vẫn dỗi không chịu ló mặt, từ đấy trái đất chỉ có một Mặt trời chiếu sáng.

(Bích Hằng tuyển chọn)

Nguồn: Nhà Xuất Bản Văn Hóa Thông Tin
Người Type: Tiếng Mưa Đêm
Về Đầu Trang Go down
Chiêu Phong

Chiêu Phong



TRUYỆN CỔ TÍCH VIỆT NAM Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: TRUYỆN CỔ TÍCH VIỆT NAM   TRUYỆN CỔ TÍCH VIỆT NAM EmptyThu Apr 11 2013, 22:20

Có truyện cổ tích "Ông lão đánh cá và con cá vàng" hông... kể nghe coi. :nhìn:
Về Đầu Trang Go down
Ntd Hoa Viên

Ntd Hoa Viên



TRUYỆN CỔ TÍCH VIỆT NAM Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: TRUYỆN CỔ TÍCH VIỆT NAM   TRUYỆN CỔ TÍCH VIỆT NAM EmptyThu Apr 11 2013, 22:22

Nhà ngư có hông? Đem về cho bà con xem đi! sún Ta cũng đi kiếm coi. Chạy Xe
Về Đầu Trang Go down
Chiêu Phong

Chiêu Phong



TRUYỆN CỔ TÍCH VIỆT NAM Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: TRUYỆN CỔ TÍCH VIỆT NAM   TRUYỆN CỔ TÍCH VIỆT NAM EmptyThu Apr 11 2013, 22:51

Ta có thì để để dành coi, chứ đem về cho ngư làm gì. lăn
Về Đầu Trang Go down
Ntd Hoa Viên

Ntd Hoa Viên



TRUYỆN CỔ TÍCH VIỆT NAM Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: TRUYỆN CỔ TÍCH VIỆT NAM   TRUYỆN CỔ TÍCH VIỆT NAM EmptySun Apr 21 2013, 17:21

HẰNG NGA BAY LÊN CUNG TRĂNG


Hậu Nghệ đang ngồi trong nhà, thì có một người đến sụp lạy trước mặt nói: Thưa dũng sĩ Hậu Nghệ ngày đã từng bắn rụng chín mặt trời, chỉ để lại một mặt trời duy nhất, khiến muôn loài thoái khỏi cảnh nóng như thiêu như đốt, khiến cho đất trời trở nên mưa thuận gió hoà, cây cối xanh tươi, mọi người được sốngmột cuộc sống yên ấm và no đủ. Hậu Nghệ chỉ nói: “Chuyện đã lâu rồi nhắc lại làm gì?” – Ngày không muốn nhắc lại nhưng mọi người không ai có thể quên. Ngài đã đến các vùng hoang vu hiểm trở, biển sâu để trừ diệt yêu ma, quái vật ngày đêm rình rập đe doại dân lành. Hậu Nghệ vẫn chỉ nói: “Đấy là nghĩa vụ của các dũng sĩ chân chính!”

Người đó lại nói: Lần này xin dũng sĩ ra tay lền nữa để cứu giúp nhân dân.

“Ở vùng rừng thiêng nước độc phương bắc có một con quái vật chín đầu, nó ăn thịt người và phá phách mùa màng!...” Hậu Nghệ nghe xong, lập tức sửa soạn lên đường giết con quái vật, trừ hại cho dân lành.

Chàng cầm giáo, sắp sửa lên yên ngựa thì học trò của Hậu Nghệ là Phùng Mông nắm chặt lấy dây cương nói: - “Thưa sư phụ! Giết một con yêu quái, chưa cần phải sư phụ ra tay. Việc này xin để con đi cho”! Biết Phùng Mông là một đồ đệ kém tài nhưng lại hay huyênh hoang, Hậu Nghệ cho anh ta đi đánh quỷ một trận để xem anh ta tài cán ra sao. Được sư phụ cho phép, Phùng Mông hùng dũng cắp giáo lao thẳng đến vùng rừng thiêng nước độc phía Bắc.

Lên đến nơi, vừa bị quái vật chín đầu phu nước, khạc lửa thét doạ, Phùng Mông vội bỏ chạy thục mạng về nhà… Lẽ ra hắn phải biết xấu hổ, nhưng hắn lại hù doạ sư phụ: Quái vật này tên gọi là Cửu Anh, có chính cái đàu dính liền vào nhau. Phải cùng một lúc chặt đứt cả chín đầu thì mới giết chết được nó, nếu không nó sẽ trở nên hung dữ gấp trăm lần. Sư phụ chẳng nên lên đấy làm gì, dễ uổng mạng lắ.

Hậu Nghệ vác một cây cung thật lớn ra, lắp cả chín mũi tên rồi lên đường. Chàng đánh nhau với quái vật suốt ba ngày đêm, cht đầu này nó mọc đầu khác. Cuối cùng chàng phải dùng cây cung lắp chín mũi tên bắn cùng một lúc . Cả chín đầu quái vật cùng bị trúng tên. một tiếng gầm rung chuyển cả núi rừng, quái vật đổ xuống chết ngay.

Trên đường về, Hậu Nghệ lạ dùng mũi tên thần bắn vào bụng và mắt con chim đại phong, ác điểu bị trúng tên lao thẳng xuống biển làm mồi cho đàn cá.

Mọi quái vật đều bị Hậu Nghệ giết chết hết. Người vợ yêu quý của chàng là Hằng Nga cùng dây làng vui mừng đón Hậu Nghệ thắng lợi trở về.

Phùng Mông vốn là kẻ nhỏ nghen, hắn ghen ghét với sự vinh quang của sư phụ mình. Hắn nghĩ: “Anh hùng bằng trời thì cũng có điểm yếu”. Hắn biết điểm yếu nhất của Hậu Nghệ là tính ghen tuông.

Bề ngoài Phùng Mông vẫn giả vờ tôn kính Hậu Nghệ, hắn luôn luôn phỉnh phờ làm cho Hậi Nghệ dần dần trở nên kiêu căng, ngạo mạn, coi thiên hạ không ai bằng mình.

Từ đó Hậu Nghệ suốt ngày uống rượu, chỉ thích đi săn bắn, chơi bơi. Thấy chàng bỏ bê chuyện tập luyện võ nghệ, vợ Hậu Nghệ là Hằng Nga rất buồn.

Nàng đi tìm người đồ đệ khác của Hậu Nghệ và mời anh ta về nha, nhờ anh ta lựa lời khuyên chồng. Đúng lúc đó, Phùng Mông và Hậu Nghệ về nhà. Phùng Mông vội kéo Hậu Nghệ nấp vào chỗ kín và nói: “Sư phụ xem kìa, sư mẫu đang làm chuyện gì?” Nhìn vợ mình đang trò chuyện gì đó với người học trò, dáng vẻ thân mật, Hậu Nghệ sinh nghi và nổi giận vì ghen tức.

Cũng từ đó, Hậu Nghệ càng trở nên đa nghi và ngạo ngược; chàng lạnh nhạt và xa lánh Hằng Nga.

Lúc này Phùng Mông nghĩ cách giết hại Hậu Nghệ. Một hôm hắn uốn lưỡi tán tỉnh xui Hậu Nghệ lên núi Côn Lôn để xin Tây Vương mẫu thuốc trường sinh bất lão. Thâm tâm, Phùng Mông biết là Hậu Nghệ lâu nay không luyện công nhất đinh sẽ bị quỵ ngã và chết trong khe núi.

Vì thèm được trường sinh bất lão, Hậu Nghệ đã nghe theo lời tán tỉnh của Phùng Mông, quyết lên núi Côn Lôn xin bằmg được thuốc quý!

Núi Côn Lôn là nơi ở của thần tiên, là vùng núi cao vực thẳm, xung quanh sông núi bao bọc và ngoài cùng là núi lửa rừng rực phun suốt ngày đêm.

Tuy đã lâu ngày không luyện công nhưng Hậu Nghệ vốn là người tài giỏi, nên cuối cùng đã vượt qua vô vàn khó khăn hiểm trở và leo được lên đỉnh núi Côn Lôn.

Khi hậu Nghệ đến trước cửa cung điện của Tây Vương mẫu, con vật gác cửa nhìn thấyNgười anh hùng từng bắn rụng mặt trời”, liền mở cửa cho chàng đi vào.

Tây Vương mẫu hỏi Hậu Nghệ: “Vì sao anh muốn uống thuốc trường sinh bất lão?”. Hậu Nghệ tâu:

- “Để được sống mãi, trừ hại cho dân lành”.


Tây Vương mẫu nghe xong, rất vui lòng liền sai con chim xanh ba đàu đem hồ lô thuốc “trường sinh bất lão” đưa cho Hậi Nghệ.

Hậu Nghệ vui mừng nhận thuốc. Vương mẫu dặn thêm: “thuốc này được luyện từ quả của loài cây bất tử, ăn ít sẽ không bao giờ chết, nếu ăn nhiều sẽ trở thành tiên và bay về trời đấy. Ta cho ngươi khá nhiều, về chia cho những người anh hùng khác mỗi người một ít”.

Hậu Nghệ từ biệt Tây Vương mẫu, ôm bình thuốc vượt qua muôn núi nghìn sông trở về nhà.

Trên đường về, sợ người khác ăn trộm thuốc của mình, Hậu Nghệ vẽ đầy hình ảnh gớm ghiếc lên chiếc hồ lô đựng thuốc, có ý cảnh bảo trong này là độc dược.

Phùng Mông thấy Hậu Nghệ trở về, hắn vô cùng sửng sốt, nhưng nghĩ ra một kế mới.

Phùng Mông hớt hải chạy ra đón Hậu Nghệ, hắn to, nhỏ rỉ tai:

“Sư phụ ơi! Khi thầy vừa đi xa, Hằng Nga thường đi lại với người ngoài…”

Nghe thấy thế, Hậu Nghệ nổi giận lôi đình, lập tức chạy thẳng về nhà.

Hằng Nga thấy chồng về trở về, vô cùng vui mừng chạy ra đón.

Ai ngờ, Hậu Nghệ mặt hầm hầm không nói một lời, vung tay đánh Hằng Nga và bắt nàng phải thú tội ngoại tình.

Hằng Nga vô cùng uất ức, nàng không chịu nổi sự oan trái này, nên quyết đi tìm cái chết. Nàng xông vào Hậu Nghệ giằng öấy bình hồ lô có vẽ những hình ghê rợn, nàng nghĩ trong đó là thuốc độc.

Nàng vừa chạy vừa uống; khi Hậu Nghệ đuổi kịp, Hằng Nga đã uống cạn bình thuốc…

Hậu Nghệ điên cuồng, vừa giơ tay lao về phía Hằng Nga, thì nàng đã từ từ bay lên khỏi mặt đất.

Hậu Nghệ nhẩy lên định túm lấy Hằng Nga, nhưng nàng đã bay quá cao. Hậu Nghệ chỉ nắm được một đầu thắt lưng.

Phùng Mông nấp ở sau bụi cây, nhìn thấy thế, hắn vô cùng hả hê, quỷ kế của hắn đã đánh thắng một đại dũng sĩ.

Lúc này Hậu Nghệ mới biết mình đã bị mắc lừa, chàng kêu gào thảm thiết, gọi tên Hằng Nga, nhưng nàng đã bay về phía mặt trăng sáng lấp lánh.

Hai mắt ngấn lệ, Hằng Nga bay thẳng vào cung trăng.

Từ đó, Hằng Nga cùng thỏ ngọc mãi mãi ở trong cung trăng, cô đơn và lạnh lẽo và người trần vẫn gọi trăng là chị Hằng!


(Bích Hằng tuyển chọn)

Nguồn: Nhà Xuất Bản Văn Hóa Thông Tin
Người Type: Tiếng Mưa Đêm.
Về Đầu Trang Go down
Ntd Hoa Viên

Ntd Hoa Viên



TRUYỆN CỔ TÍCH VIỆT NAM Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: TRUYỆN CỔ TÍCH VIỆT NAM   TRUYỆN CỔ TÍCH VIỆT NAM EmptyThu May 23 2013, 09:09

MỴ CHÂU - TRỌNG THỦY
(DÂN TỘC KINH)



Sau khi được thần Kim Quy giúp xây Loa Thành lại tặng một chiếc vuốt để làm nỏ thần, An Dương Vương mừng lắm, lạy tạ Quy Thần.

Trước khi đi, Quy Thần dặn dò: "Phải giữ kín và bảo vệ chiếc nỏ!" Vua đã cho xây hẳn một căn phòng ở cạnh chỗ Vua mằm để cất nỏ, không ai biết và cũng không ai được phép ra vào.

Bấy giờ Triệu Đà đã thu phục được các bộ lạc ở phía Nam Trung Quốc, xưng là chúa đất Nam Hải. Mấy lần Triệu Đà đem quân sang cướp đất Âu Lạc, nhưng vì An Dương Vương có nỏ thần, quân Triệc Đà bị giết vô số, hắn phải bấm bụng lui quân đợi cơ hội khác.

Triệu Đà thấy dùng binh không thể khuất phục được Âu Lạc bèn xin giảng hòa với An Dương Vương.

Lấy cớ để kết tình hòa hiến, y sai con trai là Trọng Thủy sang cầu thân, nhưng chủ ý là dò xét Loa Thành và tìm hiểu bí mật về chiếc nỏ thần.

Trong những này đi lại, Trong Thủy được gặp Mỵ Châu, con gái yêu của An Dương Vương, một thiếu nữ xinh đẹp và thùy mị. Trọng Thủy đem lòng yêu Mỵ Châu. Mỵ Châu dần dần cũng xiêu lòng, hai người trở nên thân thiết. Thấy đôi trẻ thương yêu nhau, vua liền gả Mỵ Châu cho Trọng Thủy. Vừa là kết tình hoà hiến giữa Âu Lạc và Nam Hải, vừa để tránh nạn binh đao gây khổ cho dân lành.

Một đêm trăng sao vằng vặc, Mỵ Châu cùng Trọng Thủy ngồi ngắm trăng giữa vườn. Đêm mỗi lúc một khuya… Trong câu chuyện tỉ tê, Trọng Thủy hỏi vợ rằng:

- Nàng ơi! Bên Âu Lạc thành không cao, dân không đông, quân sĩ không thiên chiến vậy mà không ai địch nổi. Hay là có bí quyết gì?

Mỵ Châu không chút nghi ngờ, nghĩ rằng đã là vợ chồng cũng chẳng cần giấu giếm làm gì. Nàng đáp:

- Có bí quyết gì đâu chàng! Âu Lạc có Loa Thành, lại được thần Kim Quy cho một chiếc nỏ có thể bắn một phát chết hàng ngàn quân địch.

Trọng Thủy mừng lắm nhưng làm bộ ngạc nhiên, vờ như mới nghe nói đến nỏ thần lần đầu. Thực ra khi làm rể bên Âu Lạc, Trọng Thủy đã thông tỏ đường đi, lối lại trong Loa Thành. Hắn cũng nghe nói đến chiếc nỏ thần. Nhưng làm sao có thể được trong thấy chiếc nỏ, chưa nói đến chuyện đánh cắp nỏ như Vua cha dặn. Trọng Thủy ngỏ ý được tận mắt nhìn thấy nỏ thần. Yêu chồng vô hạn, Mỵ Châu không ngần ngại đưa Trọng Thủy vào nơi cất nỏ, mà chỉ có nhà Vua và công chúa biết chỗ. Nàng lại chỉ cho chàng biết cái lẫy vốn là chiếc móng chân thần Kim Quy, không có cái lẫy thì chiếc nỏ cũng thành vô dụng. trọng Thủy chăm chú nghe, chăm chú nhìn cái lẫy hồi lâu, rồi đưa cho vợ cất đi.

Đã vài lần, Mỵ Châu đưa Trọng Thủy vào nơi cất giữ nỏ thần mà chẳng có chuyện gì xảy ra. Tình nghĩa vợ chồng ngày càng thắm thiết. Một hôm, Trọng Thủy xin phép An Dương Vương về thăm cha mẹ vì đã lâu không gặp lại. Trọng Thủy kể lại cho triệu Đà biết về chiếc nỏ thần. Đà sai một gia nhân chuyên làm nỏ chế một cái lẫy giống như hệt cái lẫy của An Dương Vương. Lẫy giả làm xong, Trọng Thủy vội vã trở sang Âu Lạc.

Thấy con rể trở lại, An Dương Vương sai bày tiệc rượu để mừng vui hội ngộ. Trọng Thủy uống cầm chừng còn An dương Vương và Mỵ Châu say túy lúy. Trọng Thủy thừa lúc bố vợ và vợ say, lẻn ngay vào phòng tháo lẫy bằng móng chân thần Kim Quy và thay vào cái lẫy giả bằng móng rùa thường vào.

Hôm sau, thấy chồng có vẻ bồn chồn, hết đứng lại ngồi không yên, mỵ Châu hỏi chồng rằng:

- Chàng như có điều gì lo nghĩ?

Trọng Thủy đáp:

- Tôi sắp phải đi bây giờ. Có tin Phụ Vương ốm nặng. Làm con tôi không thể không về ngay, mà xa nàng thì tôi vô cùng thương nhớ.

Mỵ Châu buồn rầu, lặng thinh. Trọng Thủy nói tiếp:

- Bây giờ đôi ta sắp phải xa nhau, không biết đến bao giờ gặp lại! Nếu chẳng may giặc giã, có khi nàng sẽ không ở chốn này nữa, tôi biết đâu mà tìm?

Mỵ Châu nói:

- Thiếp có áo lông ngỗng, hễ có nguy hiểm thiếp chạy về phương nào thiếp sẽ rắc lông ngỗng dọc đường, chàng cứ theo dấu lông ngỗng mà tìm sẽ thấy.

Nói xong Mỵ Châu nức nở khóc.

Không có gì có thể làm Triệu Đà vui bằng khi Trọng Thủy đưa cho chiếc lẫy của Rùa Thần. Hắn nghĩ bụng:

- Phen này Vua dân đất Âu Lạc sẽ biết tay ta.

Nghe tin báo, Triệu Đà đem quân sang đánh Âu Lạc, An Dương Vương chỉ cười: "Hắn đã cắt tình hòa hiến, đòi con trai về, giờ lại tính chuyện binh đao - Hắn quên mất những lần bại trận rồi sao?". An Dương Vương cậy có nỏ thần, không phòng bị gì cả. Đứng trên thành nhìn quân giặc đã đến sát chân thành, An Dương Vương còn nói: "Cứ để chúng mày đến gần hơn nữa!"

Quân Triệu Đà tràn vào như kiến. An Dương Vương sai đem nỏ thần ra bắn thì thấy quân giặc vẫn cứ tiến như vào chỗ không người. Đến khi chúng phá cửa thành, kéo ùa vào. An Dương Vương vội lên ngựa, đèo Mỵ Châu sau lưng, thoát ra cửa sau phi thẳng ra phía biển. Ngồi sau lưng cha, nhớ lời Trọng Thủy đã dặn Mỵ Châu bứt lông ngỗng ở áo rắc khắp dọc đường.

Ngựa chạy luôn mấy ngày đêm mới đến núi Dạ Sơn gần bờ biển, đằng sau quân giặc đã đuổi sát gần, Vua vội khấn thần Kim Quy phù hộ cho mình. Thần Kim Quy hiện lên, bảo An Dương Vương rằng: "Giặc ở sau lưng nhà vua đấy!". An Dương Vương còn chưa hiểu ra sao thì Thần lại nói: "Mất lẫy nỏ thần về tay Triệu Đà cũng là do nó!". Nhà Vua tỉnh ngộ liền rút gươm chém Mỵ Châu, rồi nhảy xuống biển tự vẫn (1). Quân của Triệu Đà kéo vào chiếm đóng Loa Thành. Còn Trọng Thủy trong lòng thương nhớ Mỵ Châu, đã bí mật một mình một ngựa theo dấu lông ngỗng đi tìm nàng. Đến gần bờ biển thấy xác vợ nằm trên đám cỏ, tuy chết mà nhan sắc không hề thay đổi. Trong Thủy khóc oà lên, rồi cũng tự vẫn theo nàng.

Tục truyền khi Mỵ Châu đã chết, máu nàng chảy xuống biển, trai ăn được nên mới có ngọc Châu.

______________________

(1) Ngày nay trên núi Mộ Dạ huyện Diễn Xhâu, Nghệ An có đền thờ An Dương Vương.


(Bích Hằng tuyển chọn)

Nguồn: Nhà Xuất Bản Văn Hóa Thông Tin
Người Type: Tiếng Mưa Đêm
Về Đầu Trang Go down
Ntd Hoa Viên

Ntd Hoa Viên



TRUYỆN CỔ TÍCH VIỆT NAM Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: TRUYỆN CỔ TÍCH VIỆT NAM   TRUYỆN CỔ TÍCH VIỆT NAM EmptyThu Jun 13 2013, 08:48

NÀNG TÔ THỊ
(DÂN TỘC KINH)



Người mẹ trước khi đi làm đã dặn dò Tô Văn (con trai chừng 10 tuổi) – con ở nhà nhớ chăm nom Tô Thị. Nó còn bé, lại là con gái, phải nhường nhịn em. Đừng bày trò nghịch ngợm, về mẹ phạt đấy! Tô Văn vâng lời.

Nhưng trẻ con vốn hiếu động, mẹ vừa đi khỏi, Tô Văn đã bày ra đủ trò chơi: ú tim, mèo đuổi chuột, chơi chán Tô Văn bày trò chơi đánh trận. Tô Văn ném đá vào quân địch lỡ tay, ném trúng ngay vào giữa đầu em. Tô Thị ngã vật xuống đất chết ngất đi, máu ra lênh láng. Tô Văn thấy vậy sợ quá, chạy thẳng ra đường không còn dám ngoái cổ lại.

May sao, sau khi xảy ra tai nạn, một bà hàng xóm chạy sang lấy thuốc lá giấu rịt cho Tô Thị cầm ngay được máu. Đến khi người mẹ về thì con gái đã ngồi dậy được.

Nhưng còn Tô Văn thì biệt tăm, tìm khắp nơi mà không thấy. Người mẹ nhớ con trai, buồn phiền ngày một héo hon, chẳng bao lâu ốm nặng rồi chết, bỏ Tô Thị lại một mình. Đứa con gái nhỏ được láng giềng cho ăn ít ngày, rồi hai vợ chồng người chủ hàng cơm đem về nuôi để sai vặt. Sau đó ít lâu, vợ chồng người chủ hàng cơm lên xứ Lạng mở hàng nem, đem Tô Thị đi theo.

Lớn lên, Tô Thị xinh đẹp lại nết na, siêng năng, nên rất được nhiều người để ý. Dành dụm được ít vốn, nàng nghĩ cách tự lập. Bấy giờ hai vợ chồng người chủ hàng cơm đã có con cái đỡ đần, nàng xin ra ở riêng, bố mẹ nuôi đều ưng thuận. Học được nghề làm nem, Tô Thị liền mở cửa hàng nem ở Hàng Cưa tại Kỳ Lừa. Nàng làm nem rất khéo. Cửa hàng của nàng mỗi ngày một đông khách, người ta đến để thưởng thức nem ngon, cũng có người vừa thích nem vừa mê bóng mê gió cô chủ quán. Chiều khách thì thật khéo chiều, nhưng cô nàng rất đứng đắn, làm cho mọi người càng thêm vì nể.

Thấm thoát Tô Thị đã hai mươi tuổi. Tuy có nhiều người mối mai, nhưng nàng chưa thuận nơi nào.

Một hôm, có một thanh niên tuổi ngoài hai mươi vẻ ngoài tuấn tú, đem thuốc Bắc từ Cao Bằng về Lạng Sơn bán. Nghe nói ở Hàng Cưa tại Kỳ Lừa có hàng nem ngon lại có chỗ trọ rộng rãi, chàng thanh niên liền tìm đến. Chàng thấy nem quả thật là ngon và cô hàng cũng thật tươi giòn. Biết cửa hàng một hai lần rồi cứ mỗi lần mang thuốc về Lạng Sơn bán, chàng lại đến hàng nem. Bắc – tên chàng trai và Tô Thị trở nên thân thiết, trước còn mến nhau sau yêu nhau…

Hai người lấy nhau được một năm thì Tô Thị có mang sinh được một gái. Hai người yêu nhau rất mực, lại thêm có mụn con, mối tình càng khăng khít.

Một hôm Bắc về nhà, thấy vợ đang ngồi gội đầu ở ngoài hè. Anh bế con ngồi trên bậc cửa xem vợ gội đàu, kể đôi câu chuyện vặt cho vợ nghe. Chợt nhận thấy đầu vợ có cai sẹo to, anh nói:

- Đầu em có cái sẹo to, thế mà bây giờ anh mới biết.

-Bây giờ anh mới biết à? Anh cho là xấu phải không? – Tô Thị hỏi.

- Có xấu gì đâu! Tóc che, còn ma nào biết? Em đau nhọt hay sao mà lại có cái sẹo to như thế?

Thấy chồng hỏi một cách vui vẻ, nhân vui câu chuyện, Tô Thị mới kể tỉ mỉ cho chồng nghe những gì xảy ra hồi con bé. Trấn Kinh Bắc, nơi quê cũ, người anh mất tích, mẹ chết, theo vợ chồng người chủ quán lên xứ Lạng, rồi ở luôn ở đấy cho đến bây giờ… Câu chuyện càng đi sâu, Bắc càng hoảng hốt:

"Sao mình không là một kẻ khác mà lại là Tô Văn. Thôi mình đã lấy lầm em ruột rồi!...“. Chàng hồi nhớ lại những ngày xa xăm, cái ngày chàng đã lỡ ném đá vào đầu em, tưởng em chết nên đã đi lang thang không dám trở về nhà, rồi được một người buôn thuốc bắc đem về nuôi ở Trùng Khánh, thuộc tỉnh Cao Bằng. Lớn lên, Văn theo họ bố nuôi là Lý và được đặt tên là Lý Bắc. Chàng thường đem hàng xuống Lạng Sơn bán và chỉ ở đây một vài ngày là hết hàng. Ngoài con đường Lạng Sơn – Cao Bằng, Cao Bằng - Lạng Sơn chàng cũng không đi đến đâu cả. Hơn mười năm qua, chàng yên trí gia đình ở miền xuôi chắc không còn ai nữa, quê cũ đối với chàng bây giờ như trong sương mù, không còn nghĩ về đó làm gì… 

Văn nghĩ ngơi, rầu rĩ, nhưng Tô Thị mải chải đầu, quấn tóc, không để ý đến. Nàng vẫn vui vẻ hồn nhiên, không biết chồng mình đang ở những phút buồn phiền ghê gớm. Thấy Tô Thị ngây thơ, vui vẻ thế, Tô Văn càng không muốn để cho nàng biết sự thực. Ai lại để cho em gái mình con non trẻ như thế kia biết được một vụ loạn luân như thé bao giờ! Một việc loạn hôn không do ý hai người định, nhưng chàng quyết tâm giải quyết cho xong. Thôi ta lại đi biệt chuyến nữa, em gái mình trẻ trung, xinh đẹp dường ấy, làm gì chả lấy được một người chồng khác. Hãy giấu biệt cái tên Tô Văn, giờ chỉ còn Lý Bắc mà thôi. Nghĩ thế, rồi anh tìm cách để đi.

Giữa lúc tâm trạng Tô Văn như thế thì có trát của quan bắt lính thú. Lý Bắc cũng có tên đăng lính đợt này. Không bàn với vợ nửa lời, mãi đến lúc sắp lên đường, anh mới nói với vợ:

- Có lệnh của quan trên, anh đã đăng lính rồi, em ạ. Sớm mai thì lên đường. Đi chuyến này ba năm, có khi sáu năm mới về và cũng có khi lâu hơn… Em ở nhà nuôi con, còn về phần em, em cứ định liệu.

Tô Thị nghe chồng nói như sét đánh ngang tai. Đang sống yên vui với nhau bỗng chốc tan đàn xẻ nghé. Nàng khóc ấn ức, khóc hoài, khóc mãi không nói nửa lời. Còn Tô Văn chỉ những bứt rứt âm thầm cho việc mìnhđi như vậy là cách giải thoát êm nhất!

Từ ngày chồng đi lính, Tô Thị chẳng thiết gì đến việc bán hàng. Ngày ngày nàng bế con lên chùa Tam Thanh cầu cho chồng đi được bình yên, chóng đến ngày về lại cùng nhau sum họp.

Nhưng ba năm qua, bốn năm qua, nàng cũng chẳng thấy chồng về. Rồi có tin ở vùng biên ải có loạn to, có người cho là chồng nàng chết, muốn hỏi nàng về làm vợ, nhưng nàng nhất định khước từ. Có một tên kỳ hào có tiếng hống hách trong vùng, muốn hỏi nàng làm vợ kế. Hắn có thế lực và rất tàn nhẫn. Nàng thương con còn thơ dại không dám chối từ ngay, sợ rước vạ vào thân, chỉ tìm cách khất lần. Nhưng khất lần mãi cũng không được, nên cuối cùng nàng hẹn với nó một kỳ hạn, để sau này tìm mưu kế khác. "Biết đâu đến ngày ấy chồng mình lại chả về!“ nàng nghĩ thế. 



Rồi kỳ hạn cũng hết, nàng trông đợi chồng đến đỏ cả mắt mà vẫn không thấy chồng về. Nàng ôm con lên chùa Tam Thanh kêu cầu. Hôm ấy, trời bỗng nổi cơn giông. Nàng nhớ chồng, thương thân, bế con ra ngoài chùa, trèo lên một chỏm dá cao chót vót nhìn về hướng biên ải. Mây đen kéo đầy trời. Gió rít lên từng hồi qua khe đá. Mưa vẫn rơi như trút nước. Chớp loé nhằng nhịt khắp núi. Nàng vẫn bế con đứng trơ trơ, đăm đăm nhìn về hướng chồng đi. Toàn thân quả núi rung chuyển dưới những luồng sét dọc ngang. Mưa mỗi lúc một to, Tô Thị vẫn bế con đứng trơ trơ trên mỏm dá cao chót vót. 

Sáng hôm sau, mưa tạnh, gió yên, mặt trời tỏa ánh sáng xuống núi rừng. Nàng Tô Thị bế con đã hoá đá tự bao giờ.

Có câu ca dao cổ còn truyền:

Đồng Đăng có phố Kỳ Lưa
Có nàng Tô Thị, có chùa Tam Thanh.


(Bích Hằng tuyển chọn)

Nguồn: Nhà Xuất Bản Văn Hóa Thông Tin
Người Type: Tiếng Mưa Đêm
Về Đầu Trang Go down
Ntd Hoa Viên

Ntd Hoa Viên



TRUYỆN CỔ TÍCH VIỆT NAM Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: TRUYỆN CỔ TÍCH VIỆT NAM   TRUYỆN CỔ TÍCH VIỆT NAM EmptySun Jul 21 2013, 09:27

NỮ THẦN MẶT TRỜI VÀ MẶT TRĂNG.


Người xưa kể lại rằng, Ngọc Hoàng là vua trên trời, cai quản cả thượng giới lẫn bốn cõi trần gian. Ngọc Hoàng có hai người con gái rất xinh đẹp: một người tên là Mặt Trời, còn một người tên là Mặt Trăng. Ngọc Hoàng vô cùng yêu quý hai cô con gái nên rất mực cưng chiều hai nàng. Hàng ngày, Mặt Trời và Mặt Trăng phải luân phiên nhau đi xem xét tình hình dưới hạ giới. Nàng Mặt Trời đem ánh sáng rực rỡ xuống trần gian, nên gọi là ban ngày, còn nàng Mặt Trăng thì đem thứ ánh sáng lạnh lẽo và thất thường, nên người trần gọi là ban đêm. Mặt Trời khi đi xem xét hạ giới thường ngồi trên một chiếc kiệu hoa bằng vàng được trạm trổ nhiều công phu, xung quanh có đính nhiều viên ngọc quý. Trên đầu, nàng đội một chiếc vương miện trong suốt, sáng lấp lánh như pha lê. Nàng có tám người khiêng kiệu được chia ra thành hai nhóm. Một nhóm gồm bốn người già và một nhóm gồm bốn người trẻ. Nhóm bốm người già làm việc rất chăm chỉ, cẩn thận. Họ luôn lo làm tròn phận sự của mình là đưa nàng Mặt Trời đi vòng quanh trần gian rồi nhanh chóng quay về trời. Ngược lại,nhóm bốn người trẻ khiêng kiệu vốn bản tính hay la cà, chểnh mảng trong công việc. Mỗi lần khiêng kiệu đưa nàng Mặt Trời đi, họ hay nấn ná ở lại mỗi nơi thêm một lúc, nên thường về muộn. Có lẻ, chính vì vậy mà ở dước hạ giới có ngày dài, ngày ngắn. Ngày dài lo Mặt Trời đi với những người trẻ, còn ngày ngắn là do đi với những người già. Mặt Trăng là con gái út, lại được vua yêu chiều hết mực, vì vậy mà nàng vô cùng đỏng đảnh, khó tính.

Vốn bản tính bướng bỉnh, lại hay tò mò, nên mỗi lần đi xuống hạ giới, hễ cứ thấy gì lạ mắt là Mặt Trăng lại sà xuống để nhìn cho rõ rồi săm soi xách nhiễu. Người trần lúc ấy chẳng ai ưa Mặt Trăng.Tiếng ca thán của mọi người thấu lên tận thiên đình khiến Ngọc Hoàng cùng vợ là Vương Mẫu rất buồn phiền. Hai người đã khuyên can Mặt Trăng rất nhiều, nhưng nàng đều bỏ ngoài tai. Ngọc Hoàng vì chiều con nên bỏ qua. Mặt Trăng được thể, ngày càng tai quái hơn.

Thời đó, ở dưới trần gian có một chàng trai mồ côi nghèo tên là Cư. Do bố mẹ mất sớm nên từ nhỏ, Cư đã phải làm lụng vất vả, tự nuôi sống bản thân. Lớn lên, Cư trở thành một chàng trai cao lớn, có sức khoẻ phi thường.

Bất bình trước những hành động quái ác của Mặt Trăng, Cư quyết tâm sẽ trừng phạt nàng Mặt Trăng.

Một buổi tối, Cư leo lên một đỉnh núi cao, tích trữ sẵn trên một đóng cát lớn. Chàng đốt một đống lửa to rồi ngồi đợi Mặt Trăng tới. Quả nhiên, khi thấy đống lửa trên núi, Mặt Trăng tò mò sà xuống xem. Cư đợi cho Mặt Trăng tới gần, rồi bất thình lình xông ra bốc cát ném túi bụi vào mắt, mặt, mũi và người Mặt Trăng. Mặt Trăng đang vui vẻ rong chơi, bị tấn công bất ngờ, vô cùng hoảng sợ, vội nhắm tịt mắt lại, bay vụt lên cao tránh xa đỉnh núi đó ra. Nhưng cát đã dính chặt vào mặt mũi nàng rồi, không tài nào phủi hết được. Kể từ đó, tính tình Mặt Trăng bắt đầu đổi khác. Nàng trở nên hiền lành, dịu dàng không còn tai ác như xưa. Chính vì vậy mà từ đấy, ánh sáng Mặt Trăng toả ra thật nhẹ nhàng, dìu dịu, không chói lọi như ánh sáng Mặt Trời. Người ta nói rằng, ở trên cao kia, những khi Mặt Trăng này ngoảnh mặt xuống trần gian thì đó là những ngày trăng rằm, lúc đó Mặt Trăng tròn nhất, đẹp nhất. Còn khi bực bội nàng quay lưng lại, tức đêm ba mươi trái đất cứ tối mò. Nếu có lúc nào trăng quầng, thì đó là do cát bụi trát mặt bị gió thổi bay tứ tung, tạo thành những đám mây che mờ mặt trăng.

Khi hai cô con gái đến tuổi trưởng thành. Ngọc Hoàng đã gả cả hai cho một con gấu. Không ai biết con gấu từ đâu xuất hiện và làm cách nào mà nó lại được Ngọc Hoàng gả cho cả hai cô con gái yêu. Chỉ biết rằng, đó là một con gấu vô cùng to lớn và khoẻ mạnh. Con gấu rất hay ghen. Nên từ khi lấy chồng cả hai nàng Mặt Trời và Mặt Trăng bị kiểm soát việc đi lại rất chặt chẽ. Các nàng bây giờ chăm chú vào công việc, không hay đi la cà như trước nữa. Thỉnh thoảng gấu lại muốn chung sống với một người. Đó là lúc ở trần gian xảy ra hiện tượng gấu ăn trăng (nguyệt thực) hay gấu ăn mặt trời. Đó là nhật thực. Vào những ngày này, các nữ thần Mặt Trời và Mặt Trăng lại sao nhãng việc, ảnh hưởng nhiều đến mùa màng của nông dân. Vì vậy mà những người nông dân thường tụ tập đánh chiêng trống ầm ĩ lên, với hy vọng con gấu nghe thấy thế sợ hãi mà lui ra.

(Bích Hằng tuyển chọn).

Nguồn: Nhà Xuất Bản Văn Hóa Thông Tin
Người Type: Tiếng Mưa Đêm.
Về Đầu Trang Go down
Ntd Hoa Viên

Ntd Hoa Viên



TRUYỆN CỔ TÍCH VIỆT NAM Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: TRUYỆN CỔ TÍCH VIỆT NAM   TRUYỆN CỔ TÍCH VIỆT NAM EmptyWed Oct 23 2013, 07:11

NGẬM NGẢI TÌM TRẦM.


Ngày xưa, trên một vùng núi cao tại một tỉnh Ðàng trong, có hai vợ chồng nhà nọ đến sinh cơ lập nghiệp. Họ cũng trồng lúa bắp, chăn nuôi gà lợn và săn chim bắt thỏ như mọi nhà khác. Nhưng nhờ của cải của bố mẹ để lại, họ sống có vẻ phong lưu. Vì thế tuy có vất vả, hai vợ chồng vẫn vui thú gia đình với đứa con trai lên năm tuổi.

Ðột nhiên một hôm có một người bạn cũ tới thăm. Hai người đàn ông lâu ngày không gặp, tay bắt mặt mừng. Người bạn nói: "Nghe nói anh chị dời đến ở đây đã lâu. Nay có việc đi lối này, tôi mới ghé thăm được. Sẵn có cặp ngỗng mang tới biếu anh chị". Chủ hỏi: "Mấy lâu nay anh ở đâu mà không hề có tin tức gì cả. Chẳng hay anh làm nghề gì?". "Tôi chẳng nghề ngỗng gì cả. Chẳng giấu gì anh, từ lâu tôi đi tu tiên để mong đắc đạo. Trong năm năm liền ngồi tù cẳng một nơi, bây giờ có việc phải lên núi". "Lên núi để làm gì?" "Ðể tìm trầm. Phải có trầm đốt lên khi muốn đạt một lời cầu nguyện. Trầm sẽ đưa lời cầu của mình lên cung Tam Thanh. Nhờ đó "chư tiên" mới biết được điều ước muốn của mình và sẽ cho mình như nguyện".

Chủ lại hỏi: "Núi rừng trùng điệp, cây cối bạt ngàn, làm sao mà tìm cho ra trầm?". Khách đáp: "Khó gì. Tìm trầm phải ngậm ngải". Nói rồi khách móc trong tay nải ra một gói nhỏ bọc vải điều, giở ra lấy ngải cho bạn xem rồi nói: "Ðây là ngải tôi đã luyện, trải bao nhiêu năm nay mới thành. Chỉ cần ngậm một tý ngải này, có thể đi suốt năm trong rừng sâu, không sợ hùm beo rắn rết làm hại, không cần phải ăn uống gì cả, lại có hy vọng được "chư tiên" phù hộ, giúp cho tìm thấy trầm. Lúc đó thì có thể cầu được ước thấy, trường sinh bất lão".

Chủ nhân thấy bạn cũ tu luyện sắp thành công, có thể cầm chắc sự phú quý trong tay, thì hoa cả mắt. Hắn cầm lấy ngải nâng lên đặt xuống mấy lần, bụng bảo dạ: "Chà, chỉ một tý thuốc này có thể cầu được ước thấy, trường sinh bất lão, sung sướng biết bao nhiêu". Vui miệng hắn cũng kể cuộc sống của mình trong mấy năm qua cho bạn nghe, rồi giục vợ làm cơm rượu khoản đãi. Trong mấy ngày cầm khách ở lại, vốn biết tính khách thích chơi cờ, chủ nhân lấy ra một bộ cờ bằng ngà mời khách cùng đánh. Hắn chọn một con cờ đưa cho bạn, nói: "Bộ cờ này của tiền nhân tôi để lại bằng ngà rất quý. Nhưng chúng không quý bằng con tốt này. Nó bằng ngọc bích không mảy may tì vết, mà bao giờ cũng sáng óng ánh, kể cả khi để trong xó tối". Khách cầm lấy con cờ bằng ngọc xem đi xem lại, thấy quả là của quý hiếm có ở thế gian thì tắc lưỡi khen thầm, đoạn tự nhủ: "Làm sao ta có được một viên như thế để dâng lên Lão tổ...". Tuy hai bên suy nghĩ nước cờ nhưng trong bụng người nào cũng chỉ những tìm mưu lập kế chiếm đoạt của nhau: một bên muốn làm chủ gói ngải, còn một bên muốn có con cờ bằng ngọc bích.

Ngày chia tay đã đến. Giữa khi chủ khách đang "vượt xe thách pháo" thì bỗng nghe tiếng gọi của vợ, chủ vội đi vào nhà trong. Sau đó một tiệc rượu bưng ra. Trong khi thu dọn con cờ, khách đã giấu biến con tốt bằng ngọc vào trong tay áo. Nhưng khách không ngờ chính mình cũng bị tước đoạt. Sau khi chén chú chén anh được một chốc, khách nằm vật xuống bên trường kỷ. Thấy người bạn đã bị mấy chén rượu pha thuốc của mình làm đổ gục, chủ nhân vội lục tay nải chọn lấy gói ngải, rồi lật đật ra đi không kịp từ giã vợ con.

Khách ngủ một giấc đến hai ngày sau mới tỉnh dậy. Hắn ta giật mình khi sờ vào tay nải đã không còn thấy gói ngải quý đâu nữa, tìm bạn bạn cũng đi mất đường nào, hỏi vợ con bạn cũng không ai biết đâu mà trả lời. Khách bèn lủi thủi ra đi quyết tìm cho thấy bạn để đòi lại vật quý. Từ núi này sang núi nọ, khách trèo liên miên không nghỉ, nhưng tuyệt nhiên không thấy bóng kẻ bất lương. Một hôm, hắn trèo lên một đỉnh núi cao để phóng mắt nhìn ra xa, nhưng chẳng may trượt chân rơi xuống dốc, viên ngọc văng ra hóa thành đá, thân hắn hóa thành cây, rễ cây luôn luôn quắp chặt lấy đá như muốn bảo vệ của quý.

Còn về phía chủ nhân khi bước chân ra đi, nghe theo cách bày vẽ của bạn, hắn cũng bỏ ngải vào miệng để tìm trầm. Nhưng hắn đi mãi đi mãi, vượt qua trăm núi ngàn khe mà trầm đâu chẳng thấy. Khi bụng đã chán nản muốn quay trở về thì khốn nỗi lại quên mất lối. Năm này qua năm khác, gói ngải dần dần chỉ còn lại một tí bằng cái móng tay. Hắn đâu có ngờ rằng hễ bao giờ ngải tan hết thì con người sẽ hóa thành hổ. Lúc này da hắn lông đã mọc tua tủa thay cho những chỗ quần áo rách bươm. Rồi một hôm hắn biến thành con hổ xám.

Lại nói chuyện vợ con của hắn ở nhà trông đợi mỏi mòn. Nước mắt hai mẹ con mỗi ngày chảy một ít đã xói đất thành suối. Cuối cùng, ngày lụn tháng qua, hai mẹ con biến thành đá cùng với mấy gia súc và các đồ dùng quen thuộc.

Về sau, hổ xám ta cũng tìm được lối về nhà cũ. Từ đằng xa nhìn thấy bóng dáng vợ con, cả con chó, con gà đang quanh quẩn bên cạnh, hổ lấy làm mừng rỡ, bèn ba chân bốn cẳng vọt nhanh. Nhưng khi biết vợ con và gia súc đã hóa đá thì nó lồng lộn, gầm lên mấy tiếng đau xót, rồi bỏ đi biệt.

Ngày nay ở quận Khánh Dương, tỉnh Khánh Hòa, còn có núi đá gọi là núi Mẫu Tử, nổi bật là một hòn đá dựng, bên cạnh có một hòn nhỏ hơn, người ta nói đó là mẹ con. Chung quanh đá còn nhiều hòn khác nằm rải rác, người ta nói đó là con chó, con gà, cái rổ may và sợi chỉ, cái cối xay, cối giã, cài chày, cái sàng, cải chổi, v.v.... Lại còn một tảng đá khác vuông vắn người ta nói đó là bàn cờ có nhiều quân nhưng thiếu mất con tốt. Gần đấy có một dòng suối gọi là suối Tiên, nước không bao giờ cạn, người ta nói đó là do nước mắt của hai mẹ con khơi thành. Trên dòng suối thỉnh thoảng có bóng một cặp ngỗng vùng vẫy, người ta cho là dòng dõi của cặp ngỗng mà khách mang biếu, sở dĩ chúng không hóa đá là vì chúng chưa phải là gia súc quen thuộc của chủ.

Còn ở tỉnh Phú Yên, trên núi Tịnh Sơn có một hòn đá tròn gọi là đá Con cờ, người ta cho đó là con tốt bằng ngọc trong áo khách văng ra. Bên cạnh là một cây cổ thụ to hàng vầng, rễ mọc chi chít, nhưng rễ cây bao giờ cũng quắp chặt lấy đá, người ta nói đó là người bạn biến thành.


(Thái Đắc Xuân tuyển chọn)

Nguồn: Nhà Xuất Bản Hội Nhà Văn
Người Type: Tiếng Mưa Đêm
Về Đầu Trang Go down
Sponsored content





TRUYỆN CỔ TÍCH VIỆT NAM Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: TRUYỆN CỔ TÍCH VIỆT NAM   TRUYỆN CỔ TÍCH VIỆT NAM Empty

Về Đầu Trang Go down
 
TRUYỆN CỔ TÍCH VIỆT NAM
Về Đầu Trang 
Trang 1 trong tổng số 1 trang
 Similar topics
-
» Các Lễ Tết Cổ Truyền Việt Nam
» Chàng viết mướn thành Phirenzê (Truyện Ngắn - ST)
» Cách viết Y và I trong tiếng Việt
» Tích Cũ Còn Lưu
» Thu Là Cổ Tích

Permissions in this forum:Bạn không có quyền trả lời bài viết
HOA VIÊN :: VƯỜN THƠ - VĂN :: VĂN HỌC :: Truyện - Sưu Tầm-
Chuyển đến