Thống Kê | Hiện có 13 người đang truy cập Diễn Đàn, gồm: 0 Thành viên, 0 Thành viên ẩn danh và 13 Khách viếng thăm :: 2 Bots Không Số người truy cập cùng lúc nhiều nhất là 145 người, vào ngày Thu May 02 2024, 15:17 |
Latest topics | » Sau cơn mưa by Kiemtieu123 Fri May 17 2024, 18:13
» Dòng Thơ Nhạc Trích Đoạn by Nguyễn Thành Sáng Sun Apr 28 2024, 16:14
» Sau Mười Năm by Viễn Phương Thu Apr 04 2024, 18:31
» Cánh Thơ Xuân Tình by Viễn Phương Fri Mar 22 2024, 19:43
» Khúc Nhạc Tình Yêu & Câu Chuyện Tình by Nguyễn Thành Sáng Thu Jan 25 2024, 16:22
» Thơ Hay Ngắn by Nguyễn Thành Sáng Sat Jan 13 2024, 13:26
» Tôi Yêu Mùa Đông by Viễn Phương Sun Dec 24 2023, 18:50
» Thôi Rồi Nỗi Nhớ Còn Đây… by Nguyễn Thành Sáng Thu Dec 21 2023, 16:21
» Buồn Thu by Viễn Phương Sun Dec 17 2023, 19:27
» Khúc Nhạc Tình Buồn – 2 by Nguyễn Thành Sáng Wed Dec 06 2023, 14:40
» Khúc Nhạc Tình Buồn - 1 by Nguyễn Thành Sáng Tue Dec 05 2023, 12:32
» Thẫn Thờ Triền Miên by Nguyễn Thành Sáng Fri Dec 01 2023, 16:32
» THƠ NGẮN by Nguyễn Thành Sáng Mon Nov 27 2023, 16:47
» Tâm Sự Với Trăng by Nguyễn Thành Sáng Tue Nov 21 2023, 21:29
» Thổn Thức Tiếng Lòng by Nguyễn Thành Sáng Fri Nov 17 2023, 13:35
» Vậy Mà Ai Nỡ by Nguyễn Thành Sáng Mon Nov 13 2023, 20:47
» Nỗi Nhớ Niềm Thương Dưới Nắng Tà by Nguyễn Thành Sáng Thu Nov 09 2023, 22:35
» Thơ Tình Buồn by Nguyễn Thành Sáng Fri Nov 03 2023, 13:19
» Nửa Mảnh Tình Xa by Viễn Phương Wed Sep 20 2023, 02:14
» Quá Khứ Còn Đâu by Viễn Phương Mon Sep 04 2023, 17:47
» Thơ Những Mối Tình Buồn (2) by Nguyễn Thành Sáng Fri Jul 28 2023, 20:48
» Thơ Những Mối Tình Buồn by Nguyễn Thành Sáng Thu May 18 2023, 10:10
» Chung Một Cõi Về by Viễn Phương Mon May 01 2023, 18:30
» Xuân Phân Niềm Nhớ by Viễn Phương Wed Apr 05 2023, 18:28
» Mê Trần by Viễn Phương Sat Mar 11 2023, 19:38
» Tưởng Vọng Cố Nhân by Viễn Phương Mon Feb 27 2023, 22:08
» Thơ Hay Ngắn Trích Đoạn by Nguyễn Thành Sáng Tue Jan 31 2023, 09:32
» Đêm Đông by Viễn Phương Tue Jan 17 2023, 20:09
» 1- Thơ Vui Mừng Năm Mới 2023 by Nguyễn Thành Sáng Mon Jan 16 2023, 09:27
» 2- Thơ Vui Mừng Năm Mới 2023 by Nguyễn Thành Sáng Mon Jan 16 2023, 09:26
» Hương Tình Thu by Viễn Phương Mon Dec 19 2022, 03:42
» lục bát mùa thu by Lê Hải Châu Sun Aug 28 2022, 09:51
» Tháng Tám Về by Viễn Phương Thu Aug 04 2022, 18:42
» dại khờ by Lê Hải Châu Mon Jun 20 2022, 08:32
» Tập Thơ Chọn Lọc - Nhất Lang (Nguyễn Thành Sáng) by Nguyễn Thành Sáng Sat Jun 18 2022, 22:16
» TÌNH QUÊ by Lê Hải Châu Wed Jun 15 2022, 08:36
» hương thầm by Lê Hải Châu Wed May 25 2022, 08:12
» Trăm Ngày Xuân Vắng Nhau by Viễn Phương Sun May 22 2022, 06:01
» nhuộm tóc by Lê Hải Châu Wed May 18 2022, 10:57
» mùa lúa trỗ bông by Lê Hải Châu Tue May 03 2022, 10:55
» hè ơi by Lê Hải Châu Wed Apr 13 2022, 10:21
» Gửi Người Tình Lỡ by Viễn Phương Sun Apr 03 2022, 17:44
» Biển Chiều Gọi Nhớ by Viễn Phương Sat Mar 26 2022, 07:20
» nắng tháng ba by Lê Hải Châu Wed Mar 23 2022, 10:56
» Hai Góc Tình Xa by Viễn Phương Sun Mar 20 2022, 20:07
» TRANG THƠ LÊ HẢI CHÂU by Lê Hải Châu Fri Mar 18 2022, 08:43
» Gởi Bạn Tri Âm by Viễn Phương Fri Mar 11 2022, 08:52
» giấc mơ hồng by Lê Hải Châu Sun Feb 06 2022, 08:25
» MỘT CHUYỆN HI HỮU by Nguyễn Thành Sáng Sun Jan 30 2022, 13:23
» tìm lại người xưa by Lê Hải Châu Sun Jan 30 2022, 11:27
» Xuân Là Em by Viễn Phương Sat Jan 29 2022, 21:37
» chúc tết nhâm dần by Lê Hải Châu Thu Jan 27 2022, 07:48
» vào xuân by Lê Hải Châu Thu Jan 20 2022, 18:05
» RU ANH NỒNG NÀN (Mimosa) by Viễn Phương Wed Jan 19 2022, 03:04
» nghề nông by Lê Hải Châu Sat Jan 15 2022, 07:18
» sự đời by Lê Hải Châu Tue Jan 04 2022, 08:39
» tết này em có về không by Lê Hải Châu Sat Dec 25 2021, 17:24
» Tranh Thơ Giáng Thu Xưa by Giáng Thu Xưa Tue Dec 21 2021, 04:28
» cái còi xe by Lê Hải Châu Tue Dec 07 2021, 08:59
» nhớ mẹ chiều đông by Lê Hải Châu Fri Dec 03 2021, 17:17
» khất lấy chồng by Lê Hải Châu Thu Dec 02 2021, 07:07
» Xướng Họa - Đường Luật by Gió Bụi Tue Nov 23 2021, 06:54
» Chiếc Nón Bài Thơ by Gió Bụi Sun Nov 21 2021, 08:22
» thầy tôi by Lê Hải Châu Thu Nov 18 2021, 08:12
» Xoắn Xuýt Tình Thơ by Viễn Phương Tue Nov 16 2021, 09:06
» tuổi già by Lê Hải Châu Sun Nov 07 2021, 06:42
» phận người by Lê Hải Châu Mon Nov 01 2021, 10:03
» phận người by Lê Hải Châu Mon Nov 01 2021, 10:01
» bà em by Lê Hải Châu Sun Oct 31 2021, 08:32
» nói với con by Lê Hải Châu Thu Oct 28 2021, 11:05
|
May 2024 | Mon | Tue | Wed | Thu | Fri | Sat | Sun |
---|
| | 1 | 2 | 3 | 4 | 5 | 6 | 7 | 8 | 9 | 10 | 11 | 12 | 13 | 14 | 15 | 16 | 17 | 18 | 19 | 20 | 21 | 22 | 23 | 24 | 25 | 26 | 27 | 28 | 29 | 30 | 31 | | | Calendar |
|
| | Tiếng Việt gốc KHMER | |
| | Tác giả | Thông điệp |
---|
Đông Hòa
| Tiêu đề: Tiếng Việt gốc KHMER Fri Apr 06 2012, 07:44 | |
| NHÌN TỪ GÓC ĐỘ CA DAO Th.S Trần Minh Thương
1. Đặt vấn đề
1.1. Không gian văn hoá
Theo Cơ sở văn hoá Việt Nam của Trần Quốc Vượng (chủ biên), phần được coi là Tây Nam Bộ có diện tích khoảng 4.000 km2, chủ yếu là vùng đồng bằng, xen với các vùng trũng như Đồng Tháp Mười ở hai bên sông Tiền, tứ giác Long Xuyên ở phía Tây sông Hậu, là những hồ nước thiên nhiên góp phần điều hoà lưu lượng cho sông Cửu Long vào mùa nước nổi tháng 9, tháng 10. Ngoài khơi là vùng biển nông, có nhiều đảo và quần đảo như Côn Sơn, Thổ Chu, Nam Du, Phú Quốc..., cùng một vài dãy núi thấp ở phía Tây An Giang, Kiên Giang.
1.2. Chủ nhân văn hóa và ngôn ngữ
Những năm cuối TK XVII, chúa Nguyễn Phúc Chu sai Thống suất Chưởng cơ Nguyễn Hữu Kính vào kinh lý miền Nam. Đến năm 1779 thì cương vực của phủ Gia Định đã bao trùm toàn vùng Nam Bộ hiện nay. Kể từ thời điểm đó, những người Việt ở miền Trung, miền Bắc đã vào vùng Đồng Nai, Gia Định khai phá đất hoang, sinh cơ lập nghiệp, rồi tiến dần xuống vùng đất Cửu Long.
Người Khmer ở ĐBSCL hiện nay ước khoảng 1.3000.000 người, tập trung nhiều nhất là ở các tỉnh Sóc Trăng (khoảng 400 ngàn), Trà Vinh (khoảng 320 ngàn), Kiên Giang (khoảng 204 ngàn), An Giang (khoảng 85 ngàn), Bạc Liêu (khoảng 60 ngàn), Cần Thơ (khoảng 39 ngàn), Cà Mau (khoảng 24 ngàn), Vĩnh Long (khoảng 21 ngàn)…
Là một tộc người trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam, người Khmer đã sinh sống lâu đời ở đồng bằng sông Cửu Long. Người Khmer có tiếng nói và chữ viết riêng, nhưng cùng chung một nền văn hoá, một lịch sử bảo vệ và xây dựng tổ quốc Việt Nam. Đồng bào Khmer sống xen kẽ với đồng bào Kinh, Hoa trong các phum, sóc, ấp. Và chính trong đời sống cộng cư ấy, sự ảnh hưởng qua lại giữa tiếng Khmer và tiếng Việt diễn ra như một quy luật tất yếu của ngôn ngữ.
Trong bài nầy, chúng tôi không có tham vọng gì hơn là chỉ tìm đọc, và học thêm những chữ có liên hệ giữa tiếng của người Kinh và Khmer, liệt kê ra đây một số câu ca – vốn là lời ăn tiếng nói có trong dân gian, hầu truy tầm căn nguyên của chúng.
2. Tiếng Viết gốc Khmer qua ca dao Tây Nam Bộ 2.1. Những tiếng Khmer còn giữ nguyên gốc trong tiếng Việt
Những chữ Việt gốc Campuchia thông dụng trong tiếng Việt. Dân Việt đã ký âm những chữ này bằng cách dùng mẫu tự tiếng Việt. Chúng ta đã dùng những chữ loại nầy vài thế kỷ nay, đến nỗi chúng ta không biết nó từ đâu mà có, chỉ cần hiểu nghĩa và dùng chúng như những chữ Việt thông dụng khác. Song, số lượng những từ ngữ nguyên gốc này xuất hiện trong ngôn ngữ phổ thông của tiếng Việt không nhiều.
Xneng là dụng cụ đươn bằng nang tre, trúc của người Khmer, có hình như cái xuổng. Người bình dân dùng để xúc cá, tép ở những nơi có nước cạn, cỏ hoang mọc đầy. Câu hát của người nào đó đã cất lên vẳng văng trên cánh đồng thửa ruộng:
Chiều chiều lấy cái xneng Lên đồng xúc cá hái sen một mình Ở một câu ca khác: Thằn lằn cụt đuôi ai nuôi mày lớn Dạ thưa thầy con lớn mình ên
Khmer có êng: một mình, chuyển sang Việt ngữ mất chữ g thành ên cũng mang nét nghĩa một mình.
Hay:
Xa em nhớ vị sim lo Xa em nhớ khứa cá kho quê nghèo
Sim lo (hay sum lo) là món canh của người Khmer nấu bằng bầu, hay lá bình bát dây, đặc biệt nó được nêm bằng mắm bò hóc (prahok), đây là từ người Việt mượn nguyên mẫu để sử dụng.
Cái nóp đã gắn liền với quân dân Nam Bộ thành đồng. Nóp cũng là tiếng Khmer còn giữ lại nguyên gốc, nó chuyển sang tiếng Việt bằng phiên âm mà thôi:
Vai mang cái nóp tay xách cái lọp cái lờ Về miền đồng chua nước mặn đặng nhờ miếng ăn
Cái lộp theo tiếng Khmer là dụng cụ đan bằng tre, dùng để bắt cá tôm. Một đầu của lộp có hom bện bằng tre vót cỡ chiếc đũa ăn, hình phễu, cá tôm, rùa rắn vào được nhưng không thể ra. Nông dân miệt này ai cũng biết, cũng dùng lộp để bắt thuỷ sản.
2.2. Những từ Khmer được Việt hoá
Từ tiếng Khmer nhưng khi đi vào tiếng Việt, người Việt, người Hoa có cách phiên âm của riêng mình. Dần dần nó bị chuyển cả về hình thức ngữ âm, lớp từ này khá phổ biến trong ngôn ngữ bình dân vùng đồng bằng sông nước Cửu Long. Có điều người ta nói, người ta viết nhưng ít khi chú ý nguồn gốc của nó có từ đâu.
2.2.1. Những từ chỉ địa danh
Trong số 13 tỉnh thành ở vùng đất Chín Rồng thì có đến hơn nửa trong số các danh từ riêng ấy hoặc là có từ gốc Khmer hoặc còn tồn nghi về gốc Khmer của nó. Có thể kể như: Bạc Liêu, Sóc Trăng, Trà Vinh, Vĩnh Long, Đồng Tháp, Cần Thơ, Cà Mau, …
Từ vùng đất mũi còn vang vọng lời ca :
Cà Mau khỉ khọt trên bưng Dưới sông sấu lội, trong rừng cọp um
Cà Mau là từ Việt hoá của tiếng Khmer là Tuk Khmau, nghĩa là nước đen mà thành. Nguyên cớ là vùng rừng U Minh gồm Cán Gáo, Tân Bằng, Trèm Trẹm, Cái Tàu và phía bên hữu ngạn sông Ông Đốc, ..., nước ngập quanh năm, nước tích tụ lâu ngày chảy ngang qua rừng đầy lá mục của dừa nước, tràm, gừa ráng, choại, dớn, lát, sậy, năn, cỏ nước mặn, ... nên nước màu vàng đậm như nước trà, nhiều khi đen, có mùi hôi và vị phèn chua, mặn, ...
Về đất Ba Xuyên nghe câu hát :
Chợ Sóc Trăng chà gạo lộn trấu càng, Anh thương em là thương lời ăn tiếng nói dịu dàng, Chớ không phải anh vì bạc vì vàng mà thương.
Theo Lê Hương thì Sóc Trăng là do tiếng Khmer đọc trại ra từ chữ Srok Tréang có nghĩa là bãi sậy vì ngày xưa đất Sóc Trăng có nhiều lau sậy hoang vu. Ông còn nêu truyền thuyết khác, theo đó thì đất này (tại ấp Sóc Vồ ngày nay) vào thời Nguyễn, giặc Xà Na Téa và Xà Na Tua dùng làm kho chứa bạc, kho chứa vũ khí, kho chứa lương thực chống lại triều đình. Do đó Sóc Trăng là do chữ Srok Kh'leang đọc trại mà ra.
Vương Hồng Sển lại cho rằng: Theo quyển Petit Cours de Géographie de la Basse Cochinchine par Trương Vinh Ky thì Sốc Trăng (Sóc Trăng) là tên dân gian của Nguyệt Giang tỉnh (tỉnh Sông Trăng). Tên này có nguồn gốc Khmer là Péam prêk sròk khlẵn (di cảo Trương Vĩnh Ký trong le Cisbassac). Péam là vàm, prêk là sông, sròk là sốc, khlẵn (kh'leang) là kho bạc. Nguyên đời vua Cơ Me (Khmer) có đặt một kho chứa bạc nơi đây. Đến đời vua Minh Mạng, đổi tên chữ ra Nguyệt Giang tỉnh vì triều đình đã ép chữ sốc biến ra chữ sông, chữ kh'leang ra trăng và đổi thành nguyệt. Nhà học giả này còn khẳng định Sóc phải viết có dấu ô, tức Sốc mới đúng!
Qua cầu Rạch Miễu đến quê hương Đồng Khởi, xứ dừa :
Bến Tre nhiều gái má hồng Không tin thì xuống Mỹ Lồng mà coi
Theo cụ Vương Hồng Sển thì Bến Tre vốn là xứ sinh sản và sản xuất nhiều cá tôm, cho nên xưa, người Khmer gọi là Srok treay (đọc là sốc tre), nhưng sau này người Khmer gọi theo người Kinh là bến có nhiều tre để phân biệt với địa danh Cần Thơ, cũng có nhiều tre, người Khmer gọi tre là rusei, nên có hai địa danh rành rẽ: prêk rusei (sông tre): chỉ Cần Thơ/ prêk kompong rusei để chỉ Bến Tre. Hội nghiên cứu cổ học Đông Dương, năm 1903 ấn hành quyển khảo cứu đặc biệt (monographia) về tỉnh Bến Tre trong đó có đoạn (lược dịch): Bến Tre xưa, người Khmer gọi là sốc tre … vì trong xứ trên các giồng có tre mọc đầy. Cụ Sển cho biết thêm “theo tôi (tức Vương Hồng Sển) đây là dịch sai hai chữ Bến Tre. Tre đây là treay của Khmer, phải dịch là cá (…). Lẽ đáng gọi Bến Tre là Ngư Tân, hoặc Bến Cá: srok kompong treay”.
Mỹ Lồng là địa danh nổi tiếng với nghề làm bánh tráng ở đây (Bánh tráng Mỹ Lồng, bánh phồng Sơn Đốc). Mỹ Lồng có nguồn gốc từ chữ Srok Mi Lôn = xứ, xóm của nàng tên Lôn.
Ngược lên vùng Bảy Núi, có câu:
Anh về xứ Chắc Cà Đao Bỏ em ở lại như dao cắt lòng
Chắc Cà Đao: Tên một con rạch và cũng là tên một chợ nhỏ (nay là thị trấn An Châu) gần thị xã Long Xuyên, tỉnh An Giang. Học giả Vương Hồng Sển, ghi lại hai giải thích là:
Theo ông Nguyễn văn Đính, thì địa danh Chắc Cà Đao có thể do chữ Khmer chắp kdam (bắt cua) mà ra vì vùng nầy xưa kia có nhiều cua. Theo nhà văn Sơn Nam, Chắc Cà Đao do chữ Prek Pedao; Prek = rạch; pédao = loại dây mây; rạch có nhiều dây mây.
Và ông nghĩ rằng giả thuyết của Nguyễn Văn Đính hợp lý hơn.
Trở lại Tiền Giang khảo chứng từ Mỹ Tho:
Đèn Sài Gòn ngọn xanh ngọn đỏ Đèn Mỹ Tho ngọn tỏ ngọn lu Anh về học lấy chữ nhu Chín trăng em đợi mười thu em chờ
Người Khmer thời trước gọi vùng đất Mỹ Tho là srock mé sa, mi so (di cảo Trương Vĩnh Ký trong Le Cisbassac). Nghĩa là xứ (srock) có nàng con gái (mé) có nước da trắng (sa, so). Khi sang Việt ngữ, dân gian gọi là Mỹ Tho, đã bỏ đi chữ srock,chỉ còn giữ lại mi so và biến âm sang mà thôi.
Vượt cầu Cần Thơ về lại Phong Điền:
Cái Răng, Ba Láng, Vàm Xáng Phong Điền Anh có thương em thì cho bạc cho tiền Đừng cho lúa gạo xóm giềng cười chê
Vương Hồng Sển khẳng định chắc chắn rằng Cái Răng là vùng kênh rạch ngày trước có nhiều ghe của người Khmer chở cà ràn đi bán. Cà ràn là lò bằng đất nung, có hai phần, phía trước rộng là chỗ chứa củi đang chụm, vừa là nơi chứa tro và than đỏ để làm thành cái bếp nướng (nướng kẹp tre), và phần lò lửa, trên miệng có gắn 3 cái chấu (ông táo) để bắc nồi ơ. Cà ràn thông dụng trong vùng Tân Châu, Châu Đốc…, ở nhà sàn, đáy của cà ràng giữ vai trò bảo vệ cái sàn chống hoả hoạn. Tương tự, cà ràng cũng rất được dân chài lưới, hoặc những ghe có người sống như nhà lưu động ưa dùng vì tiện lợi. Chính từ cà ràn được các bản đồ thời Pháp phiên âm thanh caran và biến âm dần thành Cái Răng như ngày nay.
Vàm có nguồn gốc từ tiếng Khmer: péam = cửa sông, nơi một con sông nhỏ (rạch) chảy vào con sông lớn. Ở đồng bằng miền Tây Nam Bộ có nhiều sông rạch, do đó có rất nhiều địa danh bắt đầu bằng chữ vàm như: Vàm Cống (thuộc Đồng Tháp), Vàm Nước Trong (Kiến Hòa), Vàm Sông Thượng (Cần Thơ), Vàm Nao (An Giang), Vàm Tấn ở Sóc Trăng
Anh qua Vàm Tấn anh đến Cù Lao Cho anh xin chút má đào của em
Trương Vĩnh Ký có nói chữ péam trong tiếng Khmer có nghĩa là vàm thì theo ông Vương Hồng Sển, dẫn theo La Cochichine et ses habitants của Baurac, trang 362 thuật lại rằng trào đàng cựu, cho đến lối 1858, vàm Đại Ngãi còn được gọi là Vàm Tấn (péam senn), là một bến nước quan trọng tiếp đủ các thuyền đi biển đủ hạng từ Trung Quốc, Tân Gia Ba, Xiêm La, Cam Bốt.... tụ tập rất náo nhiệt để trao đổi, mua chác lúa gạo, tơ lụa, hàng vải, cá mắm, mắm muối, đồ gốm, chén bát, sừng trâu, ngà voi, lông chim, sáp, mật ong.... Đại Ngãi là từ Hán Việt của địa danh này.
Ở một câu ca khác:
Nước Ba Thắc chảy cắt như dao Con cá đao bổ nhào vô lưới Biết chừng nào anh mới cưới đặng em
Theo di cảo của Trương Vĩnh Ký, Ba Thắc là Păm prek Bàsàk. Đây là tên gọi tiếng Khmer của một vị thần hay còn gọi là nặc tà, ông tà của người Khmer, có miếu thờ ở Bãi Xàu cũ. Đại danh Ba Thắc bên Campuchia cũng có. Tương truyền ông Ba Thắc là một vị hoàng tử người Lào đến sống vùng đất trên đường đi Tham Đôn, Mỹ Xuyên ngày nay. Khi ông chết người dân quanh vùng lập miếu thờ. Lúc đầu miếu được cất theo kiến trúc Khmer bằng cây nhưng về sau, năm 1927, ông Lê Văn Quạnh và một số thân hào trong vùng đã cất lại miếu theo kiến trúc Trung Hoa dạng bán cổ bán kim và đề là Ba Thắc Cổ miếu. Di tích này đến nay vẫn còn.
Còn rất nhiều địa danh trong các câu ca dao miệt này, nhưng do khuôn khổ bài viết chúng tôi chỉ liệt kê những địa danh ấy và nguồn gốc Khmer để tham khảo: Bạc Liêu có nguồn gốc từ tiếng Khmer là Pooeu, nghĩa là cây lâm vồ (cây bồ đề – cây linh thiêng của đồng bào Khmer bởi họ cho rằng dưới gốc cây này Đức Thích Ca hoá Phật), người Triều Châu là chuyển âm thành Pô Léo có nghĩa lính Lèo, lính Lào, (Ai Lao) ; Vĩnh Long ( đất này người cố cựu còn gọi là đất Vãng gần với Vũng. Từ địa danh Vũng Luông – Kompong Luông; biến dần ra Vũng Luông, rồi Vãng Luông. Tên Vĩnh Long có từ năm 1832 khi vua Minh Mạng đổi ra Hán tự); Đồng Tháp Mười (tiếng Khmer là Thnor Mo Roy nghĩa là đường lộ (thnor), số 100 (mo roy), Đồng Tháp Mười còn có tên khác nữa là Présah Préam Loveng); tiếng Việt gọi Đồng Tháp Mười tức chỉ vùng đồng có cái tháp mười tầng, hiện tháp đã không còn, chỉ còn lại vết tích của nền đất và trong ký ức của những lão nông tri điền; Châu Đốc (người Khmer gọi là srôk (xóm, xứ) méât (miệng mồm) cruk (heo): xứ miệng heo; Kế Sách, một huyện của Sóc Trăng, nằm ở gần cửa Ba Thắc (một cửa của sông Cửu Long), phần lớn đất đai là cát do phù sa sông Hậu, rất thích hợp cho việc trồng dừa và mía. Cát tiếng Khmer là K'sach, như vậy Kế Sách là sự Việt hoá tiếng Khmer: k'sach; Sa Đéc, thị xã của tỉnh Đồng Tháp xuất phát từ Phsar Dek, phsar là chợ, dek là sắt); Trà Vang hoặc Trà Vinh xuất phát từ âm Khmer: Préah trapéang, và gắn liền với sự tích: không biết có từ bao giờ, năm đó, trong một trận nước lụt dân làng thấy một tượng Phật trôi tấp vào bờ ao, liền rước về một gò cao, cạnh đó xây chùa thờ phượng. Chùa được đặt tên Bodhisalareaj, nay gọi là chùa Ông Mẹt, tên vị sư cả đầu tiên. Trapéang được Việt hóa thành âm Trà Bang, rồi Trà Vang, sau bị nói trại thành Trà Vinh. Ở vùng Ngã Năm (Sóc Trăng) đi Long Mỹ (Hậu Giang) cũng có địa danh Trà Ban (trapéang: ao vũng) cùng nét nghĩa và nguồn gốc vừa phân tích, …
2.2.2. Những danh từ chỉ động, thực vật, đồ vật
Ngoài những địa danh có nguồn gốc từ tiếng Khmer đã được Việt hoá còn có những từ gốc Khmer khác chỉ các loài động, thực vật hay đồ vật cũng đi vào ngôn ngữ tiếng Việt và tham gia bình đẳng trong các hoạt động giao tiếp thường nhật.
Bạc Liêu nước chảy lờ đờ
Dưới sông cá chốt trên bờ Triều Châu
Cá chốt, tiếng Khmer là trey kanchos, khi đi vào ngôn ngữ phổ thông nó đã được Việt hóa thành chốt.
Tương tự là từ cá lóc trong câu ca:
Trời mưa mát đất, con cá lóc nó thoát khỏi nò Cả tiếng kêu người nghĩa trên bờ Vậy chớ mùng ai có rộng cho tôi ngủ nhờ một đêm
Tiếng Khmer có trêy rot chỉ một loại cá nước ngọt, cá này có rất nhiều ở vùng đồng bằng Cửu Long. Ở Bắc, Trung Bộ gọi là cá chuối, cá quả, cá tràu, …
Ghe bầu dùng chỉ một loại ghe lớn. Tiếng Khmer có xòm pầu tức ghe bầu; nói chi xòm pầu nghĩa là đi ghe bầu. Ca dao có câu:
Con quạ nó đứng đầu cầu Nó kêu bớ má ghe bầu vô chưa?
Một loại ghe khác là ghe chài, danh từ ấy cũng được kết hợp hết sức độc đáo:
Chú tôi trồng mía trồng khoai Bớ thím ghe chài lấy chú tôi không?
Thím ghe chài là hình ảnh hoán dụ chỉ người đàn bà đi trên ghe. Ghe chài là loại ghe có trọng tải lớn. Khmer có từ tuk pokchay. Tuk là tiếng Khmer nghĩa là ghe; còn pokchay nghĩa là chở đủ thứ, đó là tiếng Triều Châu đã được Khmer dùng như là tiếng Khmer. Người Việt dịch chữ tuk ra chữ ghe, nhưng lại mượn chữ pokchay đọc thành chài. Theo Bình Nguyên Lộc người Khmer còn gọi ghe chài là thwe.
Và đây,
Trắng da vì bởi má cưng Đen da vì bởi em lội bưng vớt bèo
Bưng được Việt hóa từ chữ trapéang : vũng, ao ; lúc đọc là trà bang, trà vang, sau rút lại còn bang rồi biến âm thành bưng. Bưng lại kết hợp với từ Hán Việt biên (bờ phía ngoài) rồi đọc thành bưng biền, …
2.3. Những từ ngữ không xác định được nguồn gốc
Đây là những từ vừa đồng âm vừa đồng nghĩa với tiếng Việt. Chúng tôi tra cứu nhiều tài liệu và đồng thuận với nhiều ý kiến cho rằng khó bề xác định những từ này có gốc từ tiếng Khmer được tiếng Việt vay mượn hay ngược lại nó có nguồn gốc từ tiếng Việt, được đồng bào Khmer vay mượn. Xin nêu một số ví dụ tiêu biểu sau đây:
Chuối non vú ép chát ngầm Trai tơ đòi vợ khóc thầm ban đêm
Ép là đẩy dính sát vào nhau, làm áp lực, người Kinh dùng từ ấy, trong khi người Khmer có tiếng ép, bòng–ep, cùng nghĩa.
Canh chua điên điển cá linh Ăn chỉ một mình nên chẳng biết ngon
Cá linh (không rõ Khmer – Việt hay Việt – Khmer, bởi trong ngôn ngữ Khmer cũng có từ linh: chỉ loài cá!)
Xuống lên lên xuống đã quen Bông tai hai chiếc tòn ten anh mua tặng mình.
Trong ngôn ngữ Khmer có tòn tenh oi cham, tức lặp đi lặp lại nhiều lần cho dễ nhớ, chuyển sang chữ tòn ten của Việt ngữ có nghĩa là lủng lẳng. Không biết ngôn ngữ nào vay mượn của ngôn ngữ nào ?
Một số câu hát quen thuộc khác:
Bình Đông là xứ quê mùa Đi thăm cháu ngoại một vùa cà na
Tiếng Khmer kêu cà na là kana. Cà na là loại cây có loại màu đen, có loại màu xanh lợt, có loại màu trắng. Cà na trong tiếng Việt còn được gọi là tráp (Bắc Bộ). Cà na là từ ngữ trở thành tên gọi của một chi trong khoa học thảo mộc (canarium), bắt nguồn từ tiếng Nam Dương (Indonesia), Khmer hoặc Việt?
Thầy anh lên xuống xuống lên Theo anh, em biết xui hên thế nào?
Hên: may mắn. Khmer có hêng, vừa đồng âm vừa đồng nghĩa. Như vậy hên chắc chắn là từ ngữ của miền Nam, có phải gốc Khmer hay không thì chưa chắc chắn (?)
Tiếng Khmer có ak hay k–ak là con diều. Người Việt gọi chim ác là là một loại chim săn như ó, diều, có lông trắng, thân hình nhỏ, có giọng la nhức tai mỗi khi chúng chạm trán với nhau.
Ngó lên con ác lăng xăng Có đôi chim sẻ đang quần với nhau
Người Việt nói ém: dấu mất, Khmer cũng nói ém cùng nghĩa. Chúng ta hãy xem câu ca mang chức năng hài hước sau đây:
Anh như du kích ém quân Chờ khi trăng lặn mới … mần với em!
3. Kết luận
Một là, ngoài hệ thống từ Hán Việt, các từ vay mượn từ tiếng Anh, tiếng Pháp thì tiếng Khmer là một bộ phận có mặt và tồn tại trong ngôn ngữ tiếng Việt. Có số ít vẫn được dùng được dạng thức phiên âm, số khác được chuyển sang ngữ âm Việt ngữ. Chúng có nguồn gốc từ Khmer, nhưng chúng ta dùng quá lâu đời nên đã hoàn toàn Việt hoá, chúng ta không hề nghĩ đến đó là những chữ ấy có nguồn gốc từ đâu. Nhiều hơn cả là lớp từ vựng mà cả tiếng Việt lẫn tiếng Khmer đều tồn tại, vấn đề ai mượn của ai tức nguồn gốc chính xác của nguyên ngữ là vấn đề được đặt ra những không dễ giải quyết thấu đáo. Hy vọng sẽ đi sâu hơn đề tài này vào một dịp khác.
Hai là, qua ngôn ngữ, cụ thể hơn là ngôn ngữ ấy ẩn chứa trong những câu ca lời hát của bình dân miền quê Tây Nam Bộ chúng ta có thể nhận định sự giao lưu văn hoá, ngôn ngữ diễn ra một cách tự nhiên của hai chủng tộc sống gần nhau, và là một điểm đặc thù của nền văn hóa các tộc người trên thế giới.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lê Văn Đức, Việt Nam tự điển (2 quyển thượng và hạ), Nxb Khai Trí, Sài Gòn, 1970.
2. Lê Giang (sưu tầm – sưu tập – biên soạn), Bộ hành với ca dao, Nxb Trẻ. Tp Hồ Chí Minh, 2004.
3. Bình Nguyên Lộc, Lột trần Việt ngữ, Nguồn Xưa xuất bản, 1971.
4. Vương Hồng Sển, Tự vị tiếng Việt miền Nam, Nxb Văn hóa, tp Hồ Chí Minh, 1993.
5. Lê Ngọc Trụ, Tầm nguyên tự điển Việt Nam, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, 1993.
6. Nguyễn Hy Vọng, Tự điển nguồn gốc tiếng Việt. CD, Tác giả phát hành. California, USA, 2005.
7. Trần Minh Thương, Tiếng Việt góc Khmer trong ngôn ngữ bình dân ở miền Tây Nam Bộ – nhìn từ góc độ ca dao, http://namkyluctinh.org/
| |
| | | | Tiếng Việt gốc KHMER | |
|
Trang 1 trong tổng số 1 trang | |
Similar topics | |
|
| Permissions in this forum: | Bạn không có quyền trả lời bài viết
| |
| |
| |